28/3/08

Mê cung ảnh

Tác giả : Sergei Lukianenko
Người dịch : Phương Hoài
Vào một ngày nào đó, Dmitry Dibenko, một anh chàng nguyên là hacker của Moscow và bây giờ là công dân thành đạt của Hoa Kỳ đã sáng tạo ra "deep - đáy sâu", ban đầu chỉ với tiêu chí là lập ra một màn hình giúp nhập thiền. Anh ta thả nó lang thang trong mạng và tuyệt nhiên không để tâm đến nó nữa. Sau đó, một anh chàng người Ukraina chơi một trò không gian ba chiều trên nền màn hình đó, và đột nhiên anh ta thấy mình lọt hẳn vào trò chơi - deep đã có tác dụng như một thuật thôi miên có thể giúp con người lọt vào không gian của máy tính. Từ đó, trên nền deep, Microsoft IBM và mạng Internet đã tạo ra "deeptown" - thành phố ảo trên mạng.

Lenia - một diver sau một cuộc đột nhập - đánh cắp thành công vào Al Qabar -một không gian ảo trong "deeptown" đã gặp Người - không - mặt, nhận được lời gợi ý cho một công việc với phần thưởng vô giá : "Mề đay cho phép làm mọi điều". Một công việc tưởng chừng như khá đơn giản đối với một "diver" : giúp đỡ một tay chơi quá say mê trở về cuộc sống thực. Lenia cảm thấy có chút gì đó không ổn, nhưng ma lực của "Mề đay cho phép làm mọi điều" - tượng trưng cho quyền lực tối cao cho phép làm tất cả những gì có thể làm được trong không gian ảo - đã mạnh hơn tất thảy. Anh đã đến gặp giám đốc trung tâm trò chơi Mê cung - một trong số những trò chơi của "deeptown" - đồng ý giúp đỡ.

Thông thường một người chỉ có thể ở trong "deeptown" tối đa 48 tiếng đồng hồ. Nhưng kẻ - không - may, một người chơi trong Mê cung đã ở đó ba mươi chín tiếng đồng hồ. Và không thể thoát khỏi trò chơi. Hai "diver" trực thuộc Mê cung đã tìm cách đưa anh ta ra, nhưng như có một lời nguyền, anh ta không thể vượt qua được bậc đó. Không thể, dù bằng cách này hay cách khác. Bằng nhiều cách khác nhau vẫn không thể đưa Kẻ - không - may ra khỏi Mê cung, Lania dần dần khám phá ra một bí mật. Để bảo vệ bí mật đó, anh đã phải chịu sự tấn công của cả hai thế lực : Al Qabar và trung tâm quản lý trò chơi Mê cung. Sự việc càng tồi tệ hơn khi cuộc chiến không chỉ trong thế giới ảo Deeptown mà đã tác động trực tiếp đến cuộc sống thực bên ngoài của Lenia, với lời đe dọa anh sẽ bị Interpol bắt giam. Lenia cuối cùng đã lựa chọn, và sự lựa chọn đó đã mang lại cho anh một kết quả bất ngờ.

Trên thực tế, Mê cung ảo không phải là một truyện khoa học giả tưởng xuất sắc. Nội dung cũng không có gì mới mẻ, nó được xây dựng tương đối giống với một số phần mềm trò chơi ăn khách hiện nay. Diễn biến truyện cũng không có nhiều kịch tính, kết thúc cũng không gay cấn, không bất ngờ cho lắm. Những chi tiết đặc biệt cũng không có nhiều. Nhân vật chính, cũng như những nhân vật anh hùng trong các tiểu thuyết khoa học giả tưởng, có đầy đủ may mắn và tri thức cho những công việc khó khăn, có thể dùng nửa ngón tay để đỡ cả trái đất, sẵn sàng từ bỏ lợi ích của riêng mình để đấu tranh cho chính nghĩa. Một cô bạn gái xinh đẹp. Và kết thúc tốt đẹp hoàn hảo. Motip quá bình thường y hệt những câu chuyện khoa học giả tưởng khác, nếu không muốn nói chỉ giống như một tập truyện quảng cáo cho mấy trò chơi ảo.

Nhưng tôi thích. Tôi thích những khái niệm vừa quen vừa lạ, thích cái thế giới kì ảo nhưng không quá xa vời với hiện thực trong đó. Có phải nó giống như một thế giới mà người người mong ước, trong đó, mọi sự cách biệt về biên giới, ngôn ngữ, màu da đều không tồn tại. Hơn thế, trong đó, con người là thượng đế, có thể tự mình sáng tạo ra thế giới mà mình ưa thích. Giống như Lania, tự sáng tạo ra một tòa nhà của riêng mình, với những gia đình nhỏ và những rắc rối của họ. Giống như Vika, sáng tạo cả một ngọn núi hùng vĩ với sông, suối, thác, hồ, tuyết rơi, núi lở động đất. Hai server chỉ cho một sở thích. Trong deeptown, con người cũng có thể thể hiện cái mà mình mong muốn mà. Như Romka uống hàng cốc rượu gin nguyên chất, phì phèo ma túy trong khi thực tế chỉ là một cậu học sinh mười lăm tuổi. Như Mũ - nồi, đi khắp các nhà chứa, các chốn tiêu khiển chỉ để đưa ra những nhận xét, phân tích - sự hành hạ về tâm hồn còn khiến người ta khủng hoảng hơn nhiều so với sự hành hạ về thể xác.

Đã có không ít tác phẩm viết về mạng : vui có, buồn có, nhưng cái kết cục tất yếu vẫn phải diễn ra trên thực tế. Vì xét cho đến cùng, dù có xây cho mình bao nhiêu ảo tưởng, con người cũng chỉ muốn hướng tới một mục đích duy nhất : khẳng định chính bản thân mình. Mê cung ảo cũng không nằm ngòai quy luật đó. Không thích những câu chuyện bi thảm hay sướt mướt thì cũng nên đọc thử. Khá hay.

P/S : trong cuốn này thấy khoái nhứt là lúc đọc đoạn Lenia - nhân vật chính bước chân vào một cái quán có tên là "Chuyện tiếu lâm". Nơi đây chuyên giành cho việc kể chuyện tiếu lâm. Có một người - một anh chàng tiếp thị gì đó - đã cố tình leo lên sân khấu để quảng cáo cho một mặt hàng điện tử gì gì đó. Nhanh chóng, Moderator của quán đó xuất hiện. (sẽ trích nguyên đoạn này)
- Không đúng đề tài - moderator nói chậm chạp nhưng với vẻ độc ác ngấm ngầm và giơ súng lên. Tất cả mọi người nín thở chờ thưởng thức một màn ngoạn mục
Nòng súng hơi rung lên và một vật đỏ rực lấp lánh hình thánh giá bay về phía anh chàng nhà buôn kèm theo tiếng rít. Anh chàng người Baltic cố gắng nhảy lên nhưng vô hiệu. Moderator không bao giờ bắn trượt. Trên áo anh chàng tiếp thị loang ra một hình chữ thập lửa, hay như người ta vẫn gọi là "dấu cộng". Ba dấu cộng như thế, lối vào câu lạc bộ "chuyện tiếu lâm" sẽ mãi mãi đóng chặt với anh ta
.

Thấy giống Lãn Tử nhà mình nhể. Nhưng có vẻ hiền hơn. :D

Akira - Mizuki - Hơn cả một tình yêu

Con là đứa trẻ không ai cần đế, không ai cả. Con chết đi sẽ tốt hơn chứ” Phải chăng suy nghĩ đó đã làm nên một Akira cô đơn và lạnh lùng đến không ai có thể dám gần gũi. Mười hai tuổi, cha đột ngột bỏ đi để lại cậu cùng với người mẹ kế xa lạ. Thực ra nói xa lạ cũng không đúng, vì tuy hai người không có quan hệ huyết thống nhưng cũng đã chung sống với nhau được nửa năm, đã được gắn kết với nhau bởi một người đàn ông - người chồng - người cha, cho dù người ấy có bỏ đi biệt tích thì mối quan hệ đó cũng vẫn còn tồn tại.

Cùng ôm trong lòng nỗi đau không thể xóa nhòa, hai con người cô đơn nương tựa vào nhau để sống, trong một ngôi nhà được bài trí như một ngôi nhà hoang, để dầu có ai bỏ đi cũng không làm người ở lại cảm thấy đau khổ, trống vắng. Đã một lần bị bỏ rơi, họ không một lần nữa phải tiếp tục đau khổ.

Không muốn phải yêu thương ai, vì, khi bị bỏ rơi, mình không thể chịu đựng nổi. Nên Akira chưa từng nhận quà tặng của bất kỳ ai, trong tâm trí cậu luôn luôn dựng sẵn một bức tường kiên cố, ngăn trở mọi yêu thương. Không yêu, vì sợ đau, cho cả mình và cho cả người khác. Không yêu, vì cảm thấy rằng, mình không đáng được yêu, vì cảm thấy rằng, sự tồn tại của mình là tạm bợ, vô nghĩa.

Bức tường kiên cố ấy khi đã lọt được vào thì vĩnh viễn ở đó. Đó là lý do vì sao khi Mizuki bỏ đi, Akira lại có biểu cảm như một người thực vật.

Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này. Vì sao khi bố bỏ đi, Akira vẫn có thể gắng gượng, nhưng khi Mizuki hét to : “ Tôi tuyệt giao với cái thứ như cậu” Akira đã hoàn toàn mất hết lòng tin vào cuộc sống

Akira có phải là một kẻ ngốc không. Không phải, nếu không muốn nói là cực kỳ thông minh và tỉnh táo. Khi Hajime tin vào nhóm Tibs, cậu đã nói “ Đừng làm quản lý nữa, hoàn toàn không hợp”. Cậu biết rằng, nếu không có một cái đầu lạnh sẽ rất dễ bị tổn thương. Khi Hajime tự dằn vặt với cái chết của Noa, cậu đã nói “ Tôi nghĩ trong chuyện này Hajime là người đau khổ nhất, nên không cần phải ép mình vô lý như vậy đâu”. Khi Mizuki muốn rút khỏi việc tranh giải Great Disk, nhờ Hajime giúp đỡ, Akira cũng nói với Hajime “ ... Mizuki rất dễ sai lầm. Nếu cứ làm như vậy, Mizuki sẽ hối hận, sẽ hận tất cả và sẽ hận luôn cả Hajime” Cậu có thể dự cảm được chính xác tất cả những gì sẽ xảy ra ngay từ khi hành động đó mới manh nha bắt đầu, đặc biệt khi người tiến hành việc đó là Mizuki. Cậu hiểu Mizuki đến tận chân tơ kẽ tóc. Khi Mizuki giận dỗi với bố, chính cậu đã nói thẳng : “ Không về thì chính cậu mới là người lo lắng”.

Nhưng Akira có mù quáng không, nếu riêng với Mizuki thì cực kỳ mù quáng, luôn làm theo Mizuki tất cả mọi việc, bất chấp hậu quả. Câu cửa miệng của cậu là “Tùy Mizuki.” Khi Mizuki định bỏ MM, khi Mizuki định từ bỏ tham dự giải G.D, câu nói của cậu luôn luôn là “ Chỉ cần cậu thích” Khi cô bạn gái cũ trở về, muốn được kết nối quan hệ tình cảm, cậu đã nói “ Vì Misaki là cô gái tuyệt vời nhất trên thế gian nên phải trở thành bạn gái của Mizuki mới xứng đáng” Khi Hajme nói rằng sẽ kết hôn với Mizuki, dù rằng trước đó cậu đã nói rằng cậu thích Hajime, cậu vẫn chúc mừng một cách cực kỳ thật lòng “ Nếu là Hajime nhất định sẽ mang lại hạnh phúc cho Mizuki” Riêng đối với cậu, Mizuki là tất cả. Năm thằng nhóc nhà Okano đã nói “ Dù anh ấy có nói như trong phim “Baby, tình yêu của anh với em sâu hơn biển”, nhưng chỉ cần là anh Mizuki thì anh ấy sẽ nhường ngay. Tình yêu của anh ấy với anh Mizuki còn sâu hơn lớp nham thạch nữa” Đó là lí do mà khi Mizuki nói rằng “Tớ sẽ tuyệt giao”, Akira đã không thể gượng dậy nổi. Thường trực trong tim Akira là cảm giác tự ti về mình, luôn cảm thấy sự tồn tại của mình là gây khổ sở cho người khác, luôn luôn tin chắc rằng chẳng ai có thể yêu thương mình. Cái lần mà Hajime ngủ quên trong phòng thi vì uống lầm thuốc cảm cậu đưa cho, cậu đã nói, “ Sao thế, tôi chết cũng được. Chỉ cần Hajime không từ bỏ ước mơ của mình thì tôi chết cũng không sao” Không phải cậu làm vậy vì cậu coi trọng Hajime, hãy xem cậu nói gì khi Hajime tham dự kỳ thi thứ hai “Lần này mà rớt thì tụi mình cũng cười được rồi nhỉ” Chỉ là, cậu cực kỳ coi rẻ mạng sống của mình, nếu có thể lấy mạng sống của mình để đánh đổi cho ai đó một niềm vui nho nhỏ, cậu cũng sẵn lòng.

Kí ức thơ ấu luôn gây những nết hằn sâu trong tâm trí, đặc biệt khi đó là những kí ức không vui. Nhờ có ông bố kì dị bỏ rơi, nhờ có người mẹ kế lúc nào cũng đau khổ tự dằn vặt về mình, Akira luôn sống trong tâm trạng chán nản, đau khổ, tạm bợ. Thường trực trong cậu là cái suy nghĩ “Bố không cần con. Bố không thuộc về ai cả, vì thế không cần ai bên cạnh cả. Con là đứa trẻ không ai cần đến” Chỉ đến khi gặp Mizuki, chỉ đến khi được Mizuki ở bên giúp đỡ, cậu mới gần như trở lại bình thường. Chính Mizuki là người đã gắn kết Akira với cuộc sống, là người đã nói : “ Nói gì thế, nếu cậu chết, tớ sẽ khóc đó. Cậu cứ tự tử đi, tớ sẽ khóc hoài, khóc mãi cho coi. Vì cậu mà suốt đời tớ sẽ không hạnh phúc được” Nhờ Mizuki, cuối cùng Akira mới tìm được một chút hi vọng mỏng manh cho sự tồn tại của mình. Nên cậu đã luôn tâm niệm với Mizuki “ Nếu cậu chết, mình sẽ chết theo cậu” Điều đó cũng đồng nghĩa , nếu Mizuki không cần đến cậu nữa, cậu cũng không còn lí do gì để tồn tại.

Đừng nhầm lẫn tình cảm của Akira với Mizuki là tình yêu, không, nó là một thứ tình cảm lớn hơn nhiều, thiêng liêng hơn nhiều so với một tình yêu. Tình yêu là thứ mà người ta còn có thể nói, “ Anh yêu em, nhưng anh rất xin lỗi vì....” , còn đối với Mizuki, tuyệt nhiên không có chữ nhưng. Trong tình yêu, người ta có thể ghen tỵ khi thấy người mình yêu có một người khác, đó là điều mà tình yêu thua xa so với tình bạn. Đối với Akira, chỉ cần được thấy Mizuki, chỉ cần Mizuki thấy thích, thấy vui vẻ, thấy hạnh phúc, như vậy là đủ rồi. Đó là thứ mà tôi yêu thích cũng như kính trọng nhất ở Akira. Có thể sống mãi vì một người, có thể tin tưởng tuyệt đối vì một người, có thể vì một người mà làm tất cả mọi việc, như vậy không phải là hạnh phúc sao.

20.02.2007

RG Veda - Truyen thuyet ve atulua


Sống một mình trong thế giới mà không có người yêu thương, thực sự rất đau khổ.

Tinh quân Cửu Diệu đã phán truyền : “Vận mạng của Atula là vừa sinh ra đã trở thành người dẫn đạo Lục tinh, chống lại thượng đế. Atula là vị thần phá hoại, nếu ở trên trời thì diệt trời, ở dưới đất sẽ phá đất. Bản chất của Atula là phá hoại, Atula là vị thần của máu lửa và chiến tranh. Khi Atula tỉnh giấc, những người đang tồn tại trên thế giới sẽ chết hết

Atula vương – người cha – không muốn trái đất bị diệt vong, nhưng mặt khác, ông cũng vẫn muốn con trai mình được sinh ra đời. Ông đem sinh mạng mình ra để đánh đổi với số phận. Ông cưới Xá Chỉ, nữ đồng của bộ lạc, người mang trên mình một trong hai lá bùa yểm Tula đao, với hy vọng, Atula sẽ vì người đó là mẹ mình mà không động thủ. Ông lại gieo vào tâm trí Dạ Xoa vương – khi ấy còn là một đứa trẻ - niềm tin về một sứ mạng cao cả “ Sẽ bảo vệ người mình yêu thương cho dù bất kỳ điều gì sẽ xảy ra.” Ông cũng bằng lòng giao kết với Đế Từ Thiên, đổi lại một lời hứa “Đế Từ Thiên sẽ không để con trai ông trở thành vị thần chiến tranh tàn phá thế giới”. Tất cả những điều đó chỉ vì một mục đích duy nhất, con trai ông, Atula, được sinh ra trên cõi đời này, mà cũng không đem lại tai họa cho thế giới.

Để giữ lời hứa với Atula vương (cha) Đế Từ Thiên nổi loạn tiếm ngôi, giết chết Thiên đế, sắp xếp lại triều đình, mong đi ngược lại lời tiên tri. Vô ích. Bánh xe vận mạng đã quay, và Dạ Xoa vương đã đánh thức Atula chính thức bước lên con đường định mệnh của mình, từng bước từng bước tập hợp Lục Tinh, diệt thiên ( Đế Từ Thiên) phá trời. Vận mạng là vận mạng, bằng những con đường khác nhau, Lục tinh đã hội tụ. Atula tỉnh giấc, dìm thế giới trong máu lửa và chết chóc. Ngũ tinh chết hết, bên kia chiến tuyến, Tứ đại thiên vương rốt cuộc cũng chỉ còn lại duy nhất một người, Thiên Kiến Thành chìm trong biển lửa, còn Dạ xoa cũng đối mặt với lưỡi kiếm của Atula. Nhưng cuối cùng, bằng tình yêu với Dạ xoa vương, Atula đã tự giam mình vào giấc ngủ vĩnh hằng, trả lại sự bình yên cho thế giới.

Truyền nhân Atula là bản sử thi vĩ đại về tình yêu. Đế Từ Thiên vì Atula vương mà sẵn sàng lật đổ cả Thiên giới, sẵn sàng chịu mang dấu ấn nghịch thiên*, sẵn sàng chịu điều tiếng. Hơn thế, vì một lời hứa, ông đã phải sống vò võ một mình suốt ba trăm năm trong đau khổ, dù ông đã từng tâm niệm rằng “Sống một mình trong thế giới mà không có người yêu thương, thực sự rất đau khổ.” Lỗ ma vì sự diệt vong của cả gia tộc mình mà sẵn sàng đi theo Dạ Xoa, theo Atula dù biết rằng, Đế Từ Thiên là không thể đánh bại. Gia Lâu Vương vì cái chết của Gia Lâu Tần em gái mình mà phải giả chết để tìm cách trả thù. Sa Môn Thiên vì muốn có được công chúa Kiết Tường Thiên mà sẵn sàng đi theo kẻ phản nghịch Đế Từ Thiên nổi loạn. Kiền Thác Bà Vương vì không thể phản bội lại lời hứa của mình nên đành tự tay giết người mình yêu. Và Dạ Xoa Vương, vì Atula, không chỉ đã để cả bộ tộc của mình bị diệt vong, mà cho đến tận lúc đối mặt với cái chết, vẫn không ngừng tin tưởng vào người mình yêu thương.

Tình yêu là hi sinh, vì người mình yêu mà sẫn sàng làm tất cả. Tình yêu cũng ích kỷ, vì người mình yêu mà hủy diệt cả thế giới cũng không từ nan. Ai đó đã nói rằng : Tình yêu kết hoa trái đến cho thế giới, cho cuộc sống. Dường như trong Truyền Nhân Atula, điều đó là không thật. Công chúa Kiết Tường Thiên chết trong vòng tay Sa Môn Thiên, Lỗ Ma chết trong tay Kiền Thác Bà Vương, Atula vương chết trong tay Đế Từ Thiên. Gia tộc Dạ Xoa vương bị diệt vong, gia tộc Lỗ Ma bị diệt vong, và biết bao nhiêu người, biết bao nhiêu người đã phải từ bỏ cuộc sống. Hình như trong đây, tình yêu chỉ mang đến máu lửa và chết chóc. Không hẳn như vậy. Không thể đổ lỗi cho tình yêu, khi mà, bánh xe vận mạng đang quay, họ chỉ là những con người yếu đuối, làm sao có thể cản trở, dịch chuyển.

Vì tình yêu của mình, Kiền Thác Bà Vương đã gửi Lỗ Ma đi theo Dạ Xoa vương, với hy vọng nhờ đó mà có thể giữ được tính mạng cho cô ấy. Nàng biết, mối thù diệt tộc luôn canh cánh trong lòng cô ấy, nhưng đối mặt với Đế Từ Thiên khác nào đưa mình vào chỗ chết. Nàng cắn răng để Lỗ Ma rời xa mình, chỉ vì, nàng nghĩ rằng, đi theo Dạ Xoa, đi theo vị chiến thần mạnh mẽ ấy, Lỗ Ma có thể tạm thời giữ lấy mạng sống.

Vì tình yêu của mình, Đế Từ Thiên đã lật đổ Thiên Đế, dù biết rằng như vậy là phải mang dấu ấn nghịch thiên. Ông sắp đặt lại nội các, tìm cách tách rời không để cho Lục tinh hội tụ. Kiền Thác Bà Vương được phong làm Trì Thiên Vương cũng là do nguyên nhân đó. Ông hy vọng giữ Lục Tinh nằm ở hai chiến tuyến khác nhau sẽ ngăn trở sự thức giấc của Atula, chiến thần phá hoại.

Mọi sự toan tính của con người vì yêu thương đều là vô ích. Vận mệnh là vận mệnh, dù đi bằng con đường nào, nó vẫn tới đích, không có cách nào ngăn trở. Lỗ Ma cuối cùng cũng đối mặt với Đế Từ Thiên, và Atula cuối cùng cũng thức tỉnh.

Nhưng tình yêu cuối cùng cũng chiến thắng. Bởi vì chỉ yêu thương không chưa đủ, phải thêm vào đó một niềm tin mãnh liệt, tình yêu mới có thể làm nên điều kì diệu. Kiền Thác Bà Vương không làm được, Đế Từ Thiên không làm được, nhưng Dạ Xoa vương đã làm được. Vì Dạ Xoa vương từ đầu đến cuối chỉ có duy nhất một Atula trong mắt, mọi thứ khác coi như không tồn tại, sống và chiến đấu vì Atula, coi việc bảo vệ Atula là vận mệnh của mình. Giả sử Dạ Xoa chỉ cần có một chút hoài nghi như Kiền Thác Bà Vương, hoặc tìm cách đi đường vòng như Đế Từ Thiên, có lẽ kết cục đã khác, có lẽ chàng đã chết dưới tay Atula và thế giới đã bị diệt vong.

Atula vương vì con trai mình mà dám thay đổi vận mệnh. Quả báo tới liền, cả bộ tộc Atula bị diệt vong, không những thế còn liên lụy tới bao nhiêu người khác. Nhưng triết lý tình yêu của Clamp là như thế. Yêu cần sự dũng cảm, dám yêu và dám làm tất cả vì người mình yêu. Tình yêu không cần thêm bất kỳ điều gì cả, chỉ có hai người như thế là đủ. Dù cả thế giới có quay lưng lại với mình, dù phải đạp cả thế giới dưới chân, chỉ cần có người ấy bên cạnh, ta vẫn vĩnh viễn hạnh phúc.

13.01.2007

Phong Linh

Chúc mừng sinh nhật bé Khương yêu quý
Giáng sinh vui vẻ, everyone
Note : tôi có hai cô bạn thân, chúng tôi thường cùng nhau làm mọi thứ, đặc biệt là khi đi mua quà tặng cho bạn bè. Nhưng mỗi khi vào một cửa hàng lưu niệm, hai cô ấy sẽ chọn quà, còn tôi, tôi chỉ đứng im ở quầy bán chuông gió. Tôi đặc biệt yêu thích những âm thanh đó. Tôi đã tự nhủ rằng, một ngày nào đó sẽ phải viết một cái fic về chúng
----------
Tinh tang, tinh tang
Nắng rải lớp khăn choàng vàng rực lên đường, dù vậy, cái rét vẫn tái tê. Mỗi lần có một cơn gió lạnh thổi thốc vào trong cửa hàng, Linh lại khẽ rùng mình, nhưng cô vẫn không đóng cửa. Cô chống tay lên trên tủ kính, nhìn đăm đắm ra đường. Buổi trưa yên tĩnh quá, lại vắng khách, chỉ có tiếng chuông gió vang lên rộn ràng, vui tươi.

Cái chuông gió xoay tít những mảnh nhựa trong veo đủ mọi màu sắc trong gió, khua rộn không gian bằng những âm thanh trong trẻo nhẹ nhàng của mình. Có lẽ vì thế mà Linh không đóng cửa. Cô sợ, nếu đóng cửa, gió không thể vào và cái chuông sẽ nằm lẻ loi câm lặng. Chuông gió nếu không có gió thì chỉ là những khối màu đẹp đẽ nằm vô hồn lơ lửng trên những sợi dây cước mỏng manh, thế thôi. Chỉ khi nào có gió, những mảnh nhựa đầy màu sắc ấy mới ngân lên những tiếng reo trong trẻo, vui thích. Nhờ thế, Linh cảm thấy vui hơn, thấy cửa hàng bớt vắng vẻ hơn.
-----------------
Ngày Linh mở cửa hàng, chính tay Phong đã mang đến một chiếc chuông gió và treo lên trên cửa. Phong bảo, mỗi khi có khách bước vào, chiếc chuông sẽ vang lên những tiếng " tinh tang' chào mừng, và việc của Linh chỉ là mỉm cười, thế là đủ. Và thế là, thay cho Phong, chiếc chuông gió được tạo ra từ những mẩu nhựa đầy màu sắc đã đồng hành với cô từ bấy đến giờ. Mỗi khi chuông reo, cô lại như nghe thấy tiếng cười trong trẻo của Phong, giọng nói nhẹ nhàng mà ngọt ngào của Phong.

Thế mà cũng một năm đã trôi qua. Cái chuông gió vẫn ngân lên những âm thanh trong trẻo ngọt ngào, vẫn đong đưa những mảnh nhựa rực rỡ đầy màu sắc, chỉ có Phong là không đến nữa. Một sự tất yếu, Không ai quá ngạc nhiên về cái kết quả đó, có chăng chỉ là ngạc nhiên vì thấy Phong có thể ở bên cô lâu đến như vậy.

Cô và Phong khá khác nhau. Anh vui vẻ nồng nhiệt và có phần hời hợt. Cô trầm lắng, sâu sắc và lạnh lùng. Lạnh lùng - đó là sự khác biệt lớn nhất giữa cô và anh. Cô chẳng giống tên mình chút nào, anh và mọi người đã nhiều lần nói thế. Cười hình như là một thứ khá xa xỉ đối với cô, cô hiếm khi có thể mỉm cười. Còn Phong, hiếm khi nào có thể thấy được sự trầm tư hay ưu phiền trên khuôn mặt luôn luôn rạng rỡ kể cả khi vừa ngủ dậy của anh.

Không ai có thể hiểu nổi vì sao anh lại đến bên Linh. Bên anh có những người con gái khác, vui tươi và rạng rỡ như anh, nhưng anh vẫn chọn cô. Mọi người bảo rằng cô thật may mắn. Cô chẳng mảy may quan tâm. Có hay không Phong thì cô vẫn như thế, chẳng có gì có thể thay đổi nổi cuộc sống của cô, cho dù là Phong.

Những ngày bên Phong, hình như đã từng tồn tại những thứ gọi là vui vẻ, bất an, buồn rầu đau khổ, nhưng những thứ tình cảm ấy nhạt nhòa đến mức cô cũng không thể mường tượng ra nổi. Nên khi Phong đi, trong những ngày đầu, cô hình như cũng không cảm thấy đau khổ cho lắm. Cô luôn tự mình làm hết thảy mọi thứ, dù có Phong hay không cũng không ảnh hưởng, cho nên, cô cho rằng, Phong có biến mất cũng chẳng liên quan gì.

Nhưng hóa ra không hẳn như thế. Không hiểu sao, trong những ngày gần đây, khi trời trở lạnh, khi những đôi tình nhân bắt đầu ríu rít nắm tay nhau đến cửa hàng chọn quà giáng sinh, cô bỗng thấy cô đơn lạ. Mỗi khi có một người khách đẩy cửa bước vào, khi cái chuông gió vang lên những tiếng "tinh tang" quen thuộc, cô lại vô thức nhìn ra cửa, và thấy tim hơi dấy lên một chút thất vọng khi người đó không phải là Phong.

Hình như chỉ khi anh không còn là của cô, cô mới cảm thấy thiếu sự hiện diện của thật sự của anh. Khi không còn anh, cô mới nhận ra, mỗi chi tiết trong cửa hàng dường như đều có dính dáng đến anh. Cô thường cau mày khi anh gắn một vài cái nơ đặc biệt lên tường, hoặc đơn giản xếp chéo một vài cái bưu thiếp, hoặc để lộn xộn một vài con thú bông nho nhỏ. Cô không thích sự lộn xộn. Cô ưa sự ngăn nắp, ưa sự hòan hảo đến từng chi tiết. Tuy nhiên, cô vẫn nhượng bộ anh ở một vài điểm, xét cho đến cùng, không nên cãi nhau vì những thứ nhỏ nhoi như vậy. Cho nên, cô cũng không phản đối khi anh treo cái chuông gió đặc biệt sặc sỡ trên cánh cửa ra vào. Và những thứ đó bây giờ trở thành những thứ gợi nhớ gay gắt đến Phong. Đặc biệt là cái chuông gió. Những tiếng vang "tinh tang" gợi cô nhớ đến nụ cười rạng rỡ của Phong, gợi nhớ đến thái độ vui vẻ vồn vã nồng nhiệt quá mức của anh " Khách quý đến rồi đây".

Cứ tưởng chừng như cô không đau khổ cho lắm, cô đã tự nhắc đi nhắc lại nhiều lần với mình, rằng, cô chẳng mảy may quan tâm đến Phong, rằng, không có Phong cô cũng vẫn có thể sống như bình thường. Hóa ra nỗi đau của cô dai dẳng hơn cô tưởng rất nhiều, chỉ là cô cố tình vùi lấp nó xuống tận đáy sâu thẳm của con tim mình. Không ai dở hơi đến mức đi đau khổ vì một người con trai bỏ rơi mình cả, cô đã tự bảo mình như thế, nhưng cô biết, hình như cô vẫn đang mong chờ Phong quay lại.

Hình như ngày ra đi Phong có nói một câu "em thật là lạnh lùng". Không biết bao nhiêu lần Phong đã nói điều đó, và mọi người xung quanh cũng nói như vậy. Có phải vì thế mà anh từ bỏ cô một cách dễ dàng, vì anh cho rằng, không có anh cô vẫn có thể sống tốt. Nhưng không phải cô vẫn luôn như thế, và anh vẫn bên cô hay sao. Ai đó đã nói nhỉ. "Khi yêu nhau chỉ cần một lý do : anh yêu em, còn khi bỏ nhau, người ta có thể viện ra trăm ngàn cớ". Nếu anh đã muốn ra đi, anh cứ lẳng lặng bỏ đi, việc gì phải viện dẫn tới một lý do mà tất thảy mọi người đều đã biết từ một trăm năm trước.

- Chị ơi

Linh giật mình. Dù cô đang đăm đắm nhìn ra cửa, cô vẫn không hề nhận ra có một cô bé vừa bước vào cửa hàng. Cô quên mất rằng cái chuông gió đã nằm ở một vị trí khác, và bây giờ, mỗi khi có một người khách bước vào, cái chuông sẽ không còn vang lên những tiếng "tinh tang" quen thuộc nữa.

Cuối cùng cô cũng quyết định hạ cái chuông xuống, cô không thể chịu nổi nữa. Nhưng khi cầm cái chuông gió trong tay, khi nhìn vào những mảnh nhựa trong veo đầy màu sắc, cô như nhìn thấy ánh mắt và nụ cười rạng rỡ của Phong. Cô không thể vứt bỏ nó đi được. Thế là cô treo nó vào sâu phía trong hơn, đủ để cửa ra vào không chạm vào nó.

Bây giờ, cái chuông nằm lơ lửng lẻ loi câm lặng. Sự im lặng còn làm Linh thấy cô đơn hơn, trống vắng hơn. Và giờ thì cô ngóng ra cửa mọi lúc, chứ không phải chỉ những lúc có tiếng chuông gió. Cô đang mong chờ điều gì, cô biết, chỉ là, cô không chịu thừa nhận điều đó. Sự bận rộn làm cô thấy dễ chịu hơn, khi chỉ còn một mình, những suy nghĩ lung tung, nỗi nhớ dày vò cô gấp hàng chục lần sự bận rộn.
---------
Cô bé khách hàng quen thuộc xúng xính trong bộ váy di gan tuyệt đẹp cầm lấy món quà được gói kín trong giấy trang kim rực rỡ, mỉm cười với Linh trước khi chạy ào đi. Linh ngồi phịch xuống ghế mệt mỏi. Thế là khách cũng vãn, chắc giờ chẳng còn ai. Người ta còn bận rộn lo chuẩn bị cho lễ Noel. Những người cần tặng quà thì chắc phải mua quà từ lâu lắm rồi. Những người cô đơn như cô thì, làm gì có ai để tặng quà đâu.

Gió lạnh thổi thốc vào mặt làm Linh thấy rùng mình, nắng chưa nhạt mà cái rét đã tái tê, nhưng cô mệt mỏi đến độ không đứng lên nổi. Cô bé khách hàng trong lúc chạy vội đi đã quên không khép lại hai cánh cửa kính, và giờ đây, gió đang lùa vào lồng lộng. Mấy ngày gần đây bận rộn đến mức khó thở, tuy đắt hàng cũng vui, nhưng mệt khủng khiếp. Và bây giờ cô hòan tòan kiệt sức. Nhưng cô cũng chẳng muốn đóng cửa về nhà sớm. Ở nhà giờ này và cho đến tối khuya cũng chẳng có ai. Mấy đứa em đã xin phép cô từ sáng, chiều nay sẽ đi tụ tập bạn bè. Chỉ còn một mình cô. Chưa bao giờ cô cảm thấy cô đơn như thế này. Phải chăng sự chăm sóc của Phong đã làm cô đổi tính, đã làm cô nhận ra rằng, dù sao có một người ở bên sẽ tốt hơn. Cô đã từng nghĩ rằng, một người càng đỡ phiền hà. Nhưng hình như không phải vậy. Một người bạn đã từng bảo cô, có một người ở bên dù sao cũng tốt hơn. Bây giờ cô mới thực sự tin.

Cô ngó ra đường, đường phố cũng dần thưa thớt. Nẳng rải những vệt màu nhàn nhạt lên đường, làm không gian có vẻ trầm tĩnh và buồn bã. Một vài nhà đã lên đèn, nhưng ánh đèn sớm nằm rải rác không đủ lung linh cả dãy phố vắng vẻ. Có lẽ phải muộn nữa thì đường phố mới nhộn nhịp. Có lẽ phải một lát nữa, người ta mới dắt tay nhau đi chơi.

Linh khẽ thở dài. Chẳng hiểu vắng vẻ như thế này sẽ làm cô cô đơn, hay lát nữa, khi chứng kiến cảnh những đôi tình nhân âu yếm bên nhau, cô mới thấy cô đơn. Nghĩ cho kỹ thì chưa bao giờ cô đi chơi cùng Phong, chưa bao giờ cô nắm tay Phong cùng bước đi trên đường. Thật là sến và vô bổ, cô đã từng nghĩ như vậy. Lục kỹ lại trong kí ức, hình như giữa cô và Phong chưa có gì có thể coi là hai người yêu nhau cả. Hình như chỉ Phong đến với cô, còn cô, chỉ dửng dưng như một người bạn bình thường. Phải chăng cái gì cũng thế, chỉ khi mất đi, nó mới là thứ quý giá.

Tinh tang, tinh tang

Đột ngột, những âm thanh trong trẻo quen thuộc vang lên rộn ràng. Linh sững sờ ngước mắt lên. Giữa phòng, cái chuông gió đang xoay xoay những mảnh nhựa đầy màu sắc một cách rộn ràng, vui tươi. Gió, gió đã ùa vào qua cánh cửa không đóng kín. Và nắng, ánh chiều tà đỏ rực rọi thẳng vào những mảnh nhựa, làm chúng càng lung linh rực rỡ. Cả không gian tràn ngập trong làn gió tươi trẻ, trong luồng âm thanh rộn ràng và điệu vũ quay cuồng của chiếc chuông gió. Trong nắng, trong gió, những mảnh nhựa tầm thường ấy có thể đẹp đến như vậy ư.

Chuông gió không thể không có gió.
Như em không thể không có anh
.

Sao bây giờ cô mới hiểu nhỉ

Linh rút điện thoại, cô ngập ngừng một chút rồi gửi đi một tin nhắn.

Ở một nơi nào đó, một chàng trai khẽ mỉm cười. Cuối cùng thì cậu cũng đợi được đến ngày ấy.

Phong oi, em nho' anh lam'
……….
24.11.2006

Chuyện vu vơ

"Con gái tóc dài trí ngắn" Ai đó đã nói như vậy nhỉ. Tôi cũng chẳng rõ lắm, vì tới hàng trăm người đã nói như vậy. Mà kho tàng ca dao Việt Nam chẳng phải cũng đã nói như vậy sao.
"Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu
"
Tôi tuyệt nhiên chẳng phản đối. Giả sử như nó không phải là sự thật, thì cười xòa một tiếng, coi như nghe một câu chuyện đùa. Còn nếu như nó là sự thật, thì dầu có phản đối bao nhiêu đi chăng nữa, nó vẫn là sự thật. Lắm lúc tôi hay cải biến câu nói trứ danh "Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết làm đẹp" thành câu " Không có người sai, chỉ có người không biết bảo vệ lý lẽ của mình" Nghe cũng có vẻ thông thông. Nhưng đó chỉ là nói chơi vậy thôi, bạn bè tôi cũng biết, rằng, tôi có tật hay bông lơn, 50% những câu nói của tôi không phải là sự thật, 50% còn lại thì cũng chỉ gần gần là sự thật. Mà cũng thật kỳ quái. Cái thế giới này đến là lạ, khi tôi nói thật, thì họ lại bảo rằng tôi đang nói dối. Còn khi tôi nói dối, họ lại đáp " Ấy, cứ thật thà như thế có phải tốt hơn không" Tôi đành cười trừ. Và cũng vì thế mà tôi nhiễm cái tật nói bông, nói xạo lúc nào không hay.

Mà dần dần, tôi sinh ra nghi ngờ chính mình. Hoặc giả những điều mà tôi đã nói đó, chinh nó đã là sự thật, rằng chính tôi đang nói sự thật chứ đâu phải nói xạo. Nhớ ngày xưa, có đọc một câu chuyện hài hước. " Một người đàn ông bị bạn bè trêu, cạo trọc đầu. Tỉnh dậy, ông ta cứ băn khoăn tự hỏi " Là ta hay là sư, là sư hay là ta". Rốt cuộc ông ta vào chùa tu, vì nhận rằng, mình chính là sư" Nghĩ đến đây, tôi không khỏi băn khoăn, có khi nào câu nói trứ danh kia lại ăn cắp ý từ câu nói của tôi chăng. Có nhẽ đâu thế, nhưng mà biết đâu, vì sự thật nhiều khi lại hoang đường gấp mấy lần sự tưởng tượng. Huống chi thời đại này, chân chân, giả giả, mơ mơ hồ hồ, biết lấy cái gì ra để làm căn cứ.

Nhưng cái đống sách cũ đang nằm chen chúc hỗn độn cạnh tôi đây thì hoàn toàn chẳng giả, chẳng mơ hồ chút nào. Tôi cũng chẳng hiểu nổi, vì sao mẹ tôi lại thích tích trữ sách cũ đến như vậy. Tòan bộ sách học của tôi từ lớp 1 đến lớp 9 đều được để lẫn lộn ở đây, và nhiệm vụ hôm nay của tôi là sắp xếp nó lại cho gọn ghẽ, hệ thống, gạn và loại. Tôi vốn cực kỳ lười, cực kỳ cực kỳ lười, nhưng hôm nay thì tôi đành phải xắn tay áo lên vận động. Vì rằng nó là sách vở của tôi, vì rằng đống truyện của tôi ngày càng nhiều lên, và sau một hồi tính tóan thiệt hơn, tôi quyết định sẽ dọn dẹp nó cho gọn ghẽ. Tôi thở dài hạ mấy cuốn đầu tiên xuống đất : một cuốn vật lý lớp 9, một cuốn hóa học lớp 8 và cuốn văn học lớp 7. Dù mười mấy năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn rất ấn tượng về cuốn văn học lớp 7 này, tôi còn nhớ là trong đó có một bài văn của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về một câu ca dao. Tôi cũng nhớ trong đó có một câu rất hay : " Nhân danh sen, nhân danh bùn, tôi tuyên bố đuổi cổ câu ca dao này ra khỏi làng văn học dân gian Việt Nam." Câu ca dao này thì tôi đã học lâu rồi, ngay từ hồi tôi mới vào lớp 1, nó đã được trân trọng in trong cuốn học vần tập 2.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"
Lẫm chẫm bước chân vào lớp 1, người ta cho chúng tôi học câu ca dao đó và nói rằng, bông sen tượng trưng cho người dân VN kiên cường thanh cao, dù vươn lên từ bùn nhưng vẫn không bị hôi tanh vì bùn... Sáu năm sau, một lần nữa người ta lại bảo với tôi rằng, câu ca dao này là phản động, là mất gốc, sen vươn lên từ bùn, dù có lam lũ thì chối bỏ bùn khác nào chối bỏ nguồn gốc. Giá như tôi không học nó từ lớp 1 thì tôi cũng không đến nỗi phải hoang mang như thế. Người ta còn nói rằng, phải loại bỏ cái tính học hành thụ động, khuôn sáo. Nhưng lúc đó, chúng tôi mới là học sinh lớp 1, chúng tôi làm gì có đủ tư duy, kiến thức để biết rằng, câu ca dao này là phản động. Phải đến tận hôm nay, khi có thời gian rảnh rỗi, tôi mới có thể ngồi lại mà suy ngẫm. Chợt tôi thoáng nghĩ đến khuôn mặt của người sắp chữ bản in. Tôi đồ rằng họ cũng có vẻ mặt như tôi lúc này. Tất nhiên là trường hợp này khá là hãn hữu, vì một cuốn là học vần lớp 1, một cuốn là văn học lớp 7. Nhưng biết đâu do sự đùa cợt của tạo hóa, không, tôi nhầm, tạo hóa làm gì lại bận rộn đến mức đó, cùng lắm nó chỉ do sự sắp xếp của ông trưởng ca in trong lúc chế tác ra bản kế hoạch in ấn, và vào một ngày đẹp trời nào đó, cuốn văn học lớp 7 được in ngay sau cuốn học vần lớp 1, và cái bài văn của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ được lên khuôn đúng ngay cái khuôn vừa dùng để in cái bài có câu ca dao kia. Bác thợ in tính ra khá là tiện lợi, chỉ cần bóc vài chữ, thêm vài chữ, thế là có ngay một bản in mới nhé.

Kể ra thì trường hợp này cũng khó thật, lẽ nào các vị trưởng bối lại không đọc trước nội dung của mấy bản in. Thực ra thì đọc cũng chỉ là đọc, vì nội dung đã được soạn hết, ký duyệt hết, họ chỉ có trách nhiệm in sao cho rõ, cho đúng chính tả. Nhưng mà họ cũng có thể khắc phục tình trạng này, bằng cách đẩy một cuốn in vào đầu tháng, một cuốn in vào cuối tháng, kéo dài khoảng cách giữa hai bản in ra, và tưởng tượng rằng chừng đó đã đủ bằng sáu năm, bằng khoảng thời gian mà một đứa trẻ đọc tiếp câu truyện về câu ca dao mà nó đã học ở lớp 1.

Bảy năm, nơi giá sách của tôi đang lưu trữ mấy chục cuốn sách giáo khoa. Thế mà thật tình cờ, cuốn học vần cấp 1 lại được đặt ngay sau cuốn văn học lớp 7. Kì quặc thật. Lẽ nào tạo hóa nhiều lúc cũng khá là khôi hài. Thế này thì cái trường hợp hãn hũu mà tôi đã nghĩ ra, về bác thợ in chỉ cần bóc vài chữ đi là có ngay một bản in mới, biết đâu đã từng xảy ra nhỉ. Trời, tôi thật là tò mò, không hiểu bác ấy sẽ nghĩ gì nhỉ.

Tôi xếp gọn sách cũ thành hai chồng, nhét cuốn văn học lớp bảy vào giữa một chồng và cuốn học vần lớp một vào giữa chồng thứ hai, buộc chặt lại. Có lẽ chỉ cần không đặt chúng cạnh nhau là được.

- 15/11/2006 Lam Anh -

Lọ sơn móng tay

Note : Đang đọc truyện ngắn của Haruki , tự nhiên thấy thích cái phong cách này thế cơ chứ. Tập viết thử vài dòng theo kiểu của ông ấy xem sao. Tất nhiên là sẽ không bằng, nhưng mà,
-----------

Tôi hai mươi bảy tuổi, không có gì đặc biệt ngoại trừ việc đã hai mươi bảy năm chưa có người yêu, và trong một tương lai gần hay xa cũng không mong muốn có

Thực ra nói như vậy cũng không chính xác lắm. Chẳng ai không mong muốn có người yêu cả, ai mà chẳng hy vọng có một người yêu thương nâng niu chăm sóc mình. Nhưng tôi đã quá mỏi mệt vì công cuộc tìm kiếm của mình, dần dần tôi cảm thấy sự hiu quạnh cũng có cái thú vị riêng của nó.

Kể ra cũng có một vài vấn đề. Cuộc sống hàng ngày có biết bao nhiêu điều xảy ra, cả thú vị lẫn bực bội. Này nhé, chuyện anh A chị B nào đó có quan hệ với nhau, hay cãi nhau, hay gì gì đó, rồi chuyện bà C có con gái thế này, rồi ông D có công việc thế kia, .v.v. Rồi tình hình thời sự chính trị, văn hóa xã hội dự báo thời tiết. v. v. và hang trăm thứ bà rằn khác nữa. Những người khác, họ có người yêu, họ có gia đình chồng con, và họ có người để trò chuyện về những thứ đó. Tôi có thể tưởng tượng ra, họ ngồi sau lưng một ai đó, vòng tay ôm chặt lấy eo người đó, ghé đầu lên vai người đó và bắt đầu thủ thỉ “ Anh ơi, hôm nay…thế này… thế kia” Chỉ mới nghĩ đến đó thôi là tôi đã thấy ghen tị đến chết đi được. Rồi hôm nào họ có chuyện buồn, chuyện bực mình, từ xa họ đã chạy ào vào một vòng tay rộng mở nào đó, họ nức nở, họ nhăn nhó khóc lóc. Và sẽ có một bàn tay vuốt ve an ủi, lắng nghe và ôm ấp xoa dịu họ. Thế đấy, có người yêu, có chồng thật là tuyệt.

Dù biết là tuyệt nhưng tôi vẫn có một mình.

Tắc đường, họ gục đầu vào vai nhau rủ rỉ, thỉnh thoảng lại cười lên khanh khách. Còn tôi, tôi kéo cao hơn chiếc khăn bịt mặt, cố gắng để khói xe không lọt vào phổi, vào họng.

Giờ tan sở, họ vội vàng ra về, tất bật lo lắng xem nên nấu ăn gì vào buổi tối, con cái họ học hành như thế nào. Còn tôi, thong thả chạy xe trên đường, hoặc rẽ vào hiệu sách quen thuộc, tìm xem có cuốn sách nào hay ho mới mẻ không

Ngẫm ra thì cái thế giới cô đơn của tôi và cái thế giới hạnh phúc của họ cũng có điểm hơn và điểm kém nhau.

Tôi thì tôi vẫn tự hài lòng với cái thế giới cô độc của tôi. Tôi có đủ thời gian và đủ việc để tiêu phí cái khoảng thời gian đó một cách yên bình và vui vẻ. Và dù có nhiều thời gian hơn nữa thì tôi vẫn còn khối việc để làm, toàn những việc cực kỳ thú vị.

Nhiều lúc tôi giả sử mình cũng giống như một người phụ nữ nào đó, có một người đàn ông quan tâm chăm sóc.

Lúc tôi có chuyện bực mình, tôi cũng nhào vào vòng tay người đó khóc lóc. Nhưng điểm này thì không được rồi. Khi khóc lóc trông tôi rất xấu xí. Tôi có cái tật hễ khóc là khóc rất to, rất lâu, mãi không thể nín được. Nên mỗi khi khóc xong, hai mắt sưng húp lên, híp tịt lại. Mà tôi khóc nhiều đến mức mũi cũng trở nên đỏ ửng, đỏ như quả cà chua. Cái miệng vốn đã rộng, giờ lại càng ngoạc ra. Có một lần khóc xong, đi rửa mặt, tôi trót dại nhìn vào cái gương và suýt nữa thì tôi đã khóc thét tiếp lên vì sợ. Sau lần ấy, tôi tuyệt nhiên không bao giờ khóc trước mặt người khác. Nếu muốn khóc tôi phải tắt đèn hoặc trùm chăn kín. Vậy thì cái vấn đề giả sử này không thể xảy ra rồi. Đến tôi tôi còn không thể chịu đựng nổi cái mặt mình khi đang khóc lóc, thì có lẽ gì tôi lại muốn người khác phải chịu đựng cái sự kinh dị ấy, đặc biệt là người mà tôi yêu. Không thể nào, không bao giờ.

Hay giả sử là tôi có một điều đó băn khoăn đi. Lấy ví dụ cái điều mà tôi đang băn khoăn bây giờ nhé. Đó, bạn thử tưởng tượng đi. Tôi đang đứng trước gương, săm soi mái tóc mình, còn anh ấy, ngồi đọc báo trên ghế. Tôi sẽ vừa chải tóc vừa nói :

- Bây giờ tóc em dài rồi, theo anh em nên cắt ngắn đi bao nhiêu nhỉ. Năm cm hay mười cm.

Chắc chắn là anh ấy sẽ vẫn dán mắt vào tờ báo, ậm ừ đáp

- Năm cm đi em.

Tôi sẽ ngần ngừ đáp :

- Nhưng đuôi tóc của em xơ xác quá, năm cm sợ không đủ

Anh ấy sẽ tiếp tục ậm ừ :

- Vậy thì cắt đi mười cm vậy

Tôi sẽ lại càng ngần ngừ :

- Nhưng mà, mười cm thì nhiều quá. Em đang thích để tóc dài, đang nhìn nó dài thế này mà tự nhiên ngắn đi tận mười cm, tiếc lắm

Chắc chắn đến đây thì anh ấy sẽ thở dài :

- Vậy thì tùy em

Rồi nhân thể tôi đang săm soi mái tóc của mình, tôi sẽ tiếp tục hỏi :

- Anh thấy em có nên nhuộm tóc không nhỉ. Lâu lắm rồi em không nhuộm tóc.

Và anh ấy tất nhiên vẫn dán mắt vào tờ báo :

- Ừ, nhuộm cũng được

- Nhưng mà nhuộm được một thời gian chân tóc lộ ra, trông lại kì kì.

- Vậy thì em đừng nhuộm nữa

Rốt cuộc là anh ấy cũng chẳng đưa ra được ý kiến gì hay ho cho những cái băn khoăn của tôi. Chỉ mấy việc đơn giản đã thế nữa là công việc của tôi, anh ấy lại càng không thể giúp đỡ gì được rồi. Ngay như tôi, bám sát nó từng ngày thế mà còn rối ruột lên vì nó, thì anh ấy, chỉ nghe tôi kể sơ sơ vài câu đâu thể cho tôi một đáp án chính xác cho được. À, đương nhiên không phải là tôi coi thường cái trí óc của anh ấy, nhưng ai cũng chỉ giỏi ở một lĩnh vực nào đó, và ngoài cái đó ra thì ai cũng mơ hồ như ai thôi.

Tiếp tục giả sử nhé, giả sử tôi cũng có một người đàn ông của mình. Tôi tất tả đi làm về, tất tả vào bếp nấu cơm, còn anh ấy ngồi đọc báo. Đương nhiên rồi, vì cái bếp nhỏ như vậy, hơn nữa, nấu cho hai người ăn có nhiều nhặn gì đâu. Thế là tôi vào bếp, xào xào nấu nấu với niềm hạnh phúc vô bờ bến. Sau đó tôi dọn cơm, còn anh ấy đi tắm. Sau đó tôi sẽ lại chờ anh ấy ăn xong, và trong lúc anh ấy dán mắt vào TV, tôi sẽ cặm cụi rửa bát. À quên, còn phải bỏ đống quần áo bẩn vào trong máy giặt nữa chứ ( đấy là trong trường hợp nhà tôi có cái máy giặt) . Trong khi máy giặt quay, tôi sẽ đi quét nhà, lau nhà, xếp gọn lại mấy tờ báo mà anh ấy đọc xong bỏ đó. Còn nếu có con, vào lúc đó tôi sẽ phải ngồi cạnh nó, canh chừng nó học bài.

Khi nghĩ đến đây, tôi như nghe thấy tiếng hét của chính tôi “ Trời ơi, có viết cho xong đi không. Ngồi cả buổi tối rồi mà vẫn còn non nửa trang thế này à.” Thế là tôi giật nảy mình, cây cọ sơn móng tay chệch hẳn ra ngoài, tý nữa là quét lên chiếu. Tôi quên chưa nói là lúc chiều nay, trong khi các đồng nghiệp của tôi, các bạn gái của tôi đang lo lựa rau, lựa thịt thì tôi đã rẽ vào cửa hàng mỹ phẩm quen thuộc, mua một lọ sơn móng tay. Và cái suy nghĩ vừa rồi của tôi đã diễn ra trong khi tôi đang sơn móng tay, móng chân.

Tôi đã đọc ở đâu đó rằng, phụ nữ khác đàn ông ở chỗ, có thể làm hai việc cùng một lúc. Và tôi phải công nhận rằng, đối với bản thân tôi, điều đó thật là đúng. Tôi, chỉ trừ lúc đọc sách là đầu óc chuyên nhất, hoặc lúc đi ngủ là đầu óc nghỉ ngơi, còn lại làm bất kỳ việc gì tôi cũng phải lồng vào đó thêm một việc nữa. Mà việc tôi làm thường xuyên nhất là suy nghĩ, suy đi nghĩ lại về mọi vấn đề. Giả sử như tôi đang gõ một cái văn bản nào đó mà có điện thoại, tôi vẫn có thể vừa trả lời điện thoại, vừa gõ tiếp cái văn bản đó. Hoặc vừa làm việc vừa nói chuyện phiếm với mấy người trong phòng, và tôi cũng xin cam đoan là tôi chưa hề sai sót một lần nào. Chỉ có hình như duy nhất một lần, vì mải suy nghĩ, tôi đã đi vượt qua nhà mình lúc nào không biết. Nhưng thường thì điều đó hiếm khi xảy ra.

Và như thế, sau khi đã lau khô mấy cái móng chân móng tay, tôi vừa chăm chú quét nhẹ lớp sơn, vừa suy nghĩ. Lúc tôi giật mình là lúc tôi đang sơn tới cái móng chân cái cuối cùng. Cái móng này lớn nhứt, nên dù có sơn chệch vẫn không đến nối lem quá. Nhưng tôi vẫn phải lấy khăn lau sạch đi, sơn lại. Xong xuôi, tôi ngồi ngắm nghía bộ móng tay mới của mình. Tôi khá là ưa thích màu này, màu hồng nhạt có thêm nhũ bạc lấp lánh. Ngày mai chắc chắn mọi người sẽ phải trầm trồ khen ngợi. Tôi vẩy vẩy hai bàn tay cho sơn chóng khô. Và thế là tôi quên béng cái vụ so sánh hay giả tưởng về một tương lai không cô đơn của mình. Thực ra cái vấn đề đó cũng khá là thú vị, chỉ là, mấy cái móng tay hồng hồng lấp lánh nhũ bạc này thú vị hơn nhiều,. Và tôi cũng đang mải suy nghĩ xem là vào ngày mai, sẽ có bao nhiêu người nhờ tôi sơn hộ móng tay, ba hay bốn.
Tôi đóng chặt lọ sơn móng tay, bỏ vào túi

Trăm hoa lộng lẫy một cành mẫu đơn.

Chẳng có tình gì, người cũng cảm
Thiên hạ xót thương cho một Thúy Kiều lầm than lưu lạc, mà không biết tới một Thúy Vân đồng sàng dị mộng, nhỏ lệ cho một Lâm Đại Ngọc bạc mệnh, mà lại nghiến răng căm hận một Tiết Bảo Thoa gối chăn lạnh lẽo
Tiết Bảo Thoa là em con dì con già với Giả Bảo Ngọc, cùng với Lâm Đại Ngọc là ba nhân vật chính của bộ Hồng Lâu Mộng một trong những kiệt tác nổi tiếng của Văn học Trung Hoa.

Rất hiếm có một độc giả nào yêu thương hay đồng cảm với Tiết Bảo Thoa. Nhớ có lần lục cái topic cũ của Việt Kiếm, đọc được mấy bài bình luận của các vị tiền bối cũ về Hồng Lâu Mộng, thấy có đoạn viết về Tiết Bảo Thoa. Vì đọc đã lâu nên không thể nhớ chính xác, nhưng nhớ là có một người đã nói đại ý rằng “ Khi đệ xem phim/đọc tới đoạn Lâm Đại Ngọc chết, không muốn coi nữa, nhưng gia mẫu bắt phải coi, coi cho biết đàn bà xảo quyệt như thế nào” ( chắc là không đúng tới từng chữ, nhưng ý thì chắc là không lệch )

Nhớ thuở còn nhỏ, cái lúc mà đọc Hồng Lâu Mộng lần đầu tiên, tôi cũng chẳng khác gì người đó, cũng căm ghét Tiết Bảo Thoa nhất trên đời, hồi đó bị hội chứng si cô Lâm, coi nàng là người tốt đẹp nhất trên đời, nên thấy nàng chết tức tưởi như thế, đau khổ như thế, không khỏi quy trách nhiệm hết lên mình Bảo Thoa. Nhưng sau này, khi đã lớn tuổi hơn một chút, giao tiếp rộng hơn một chút, khi đọc lại Hồng Lâu Mộng, tự nhiên lại sinh ra đồng cảm với Nàng Tiết.

Tiết Bảo Thoa có chỗ nào đáng ghét. Khi cố tìm cho mình một lý do để ghét nàng, tôi bất chợt phát hiện ra ở nàng chẳng có điểm nào đáng ghét cả. Nàng có xinh đẹp không, có chứ, cực kỳ xinh đẹp có phần còn hơn cả Lâm Đại Ngọc, vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp rực rỡ, đầy đặn, cao sang quý phái, như mọi người đã từng trầm trồ “ Phi cô ấy ra, còn ai xứng đáng làm hoa mẫu đơn nữa” Nàng có tài không, có chứ, khi vịnh Hải Đường trắng, không phải nàng đã đứng trên cả Lâm Đại Ngọc hay sao. Nàng có ngoan ngoãn, tốt bụng không, nếu nàng không tốt bụng thì làm gì có ai gọi là ngoan ngoãn, tốt bụng. Từ đầu đến cuối, nàng thờ mẹ kính anh, đối xử ôn hòa nhũn nhặn với mọi người xung quanh, bao dung độ lượng với kẻ dưới, nhún nhường với người ngang hàng, lễ phép với người trên. Tuy còn ít tuổi, nàng vẫn là người chỉn chu cẩn thận, không vì mình là một vị thiên kim tiểu thư lá ngọc cành vào mà hoặc đỏng đảnh, hoặc vụng về, hoặc e lệ. Là con gái của nhà họ Tiết gia tư ức vạn, nàng vẫn ăn mặc giản dị đơn giản, đâu có đua đòi se sua như những bậc tiểu thư khác đâu. Nãng cũng tuyệt nhiên chẳng phải kẻ vụng về, không chỉ biết viết chữ làm thơ, nàng còn thêu thùa may vá rất khéo. Có thể có người sẽ cười khuẩy, rằng việc thêu thùa may vá có là gì. Nhưng nếu bạn là một độc giả trung thành của Hồng Lâu Mộng, nếu bạn đã từng yêu thích Hồng Lâu Mộng như tôi đang yêu thích, hẳn bạn phải nhớ đoạn Tình Văn nửa đêm vá áo cho Giả Bảo Ngọc. Trong đoạn đó, tôi chỉ muốn bạn nhớ lại một câu nói của Tập Nhân. Tôi còn nhớ rằng, khi Tình Văn nói “ Chỗ thủng này chỉ cần dùng chỉ lông công, mạng lại là được” thì Tập Nhân đã trả lời “ Ở đây, trừ cô ra, có ai biết dùng kim chỉ đâu”. Tập Nhân, chỉ là một a hoàn hạng khá mà còn như vậy, thế mà đây vị tiểu thư ngàn vàng lại vẫn có thể thêu thùa may vá, thật đáng khâm phục thay.

Ở Tiết Bảo Thoa toát ra vẻ điềm tĩnh, bên cạnh nàng, người ta có thể an tâm mà giao phó tất thảy. Trong số các chị em ở phủ Giả, có ai biết suy tính và lo nghĩ cho người khác một cách chỉnh chu cẩn thận như nàng không. Khi Tương Vân tính mở hội Vịnh Cúc, nàng không ngần ngại mà vạch rõ : “Cô có tiêu hết cả số tiền để dành của mình cũng chẳng đủ” Rồi nàng gợi ý cho Tương Vân là dùng cua của cửa hiệu nhà nàng, vừa tiện lợi lại và lạ miệng. Cái tinh tế của Bảo Thoa ở đây là đưa ra một phương án tương đối cho Tương Vân, đủ để nàng không xấu hổ và cũng đủ để nàng chấp nhận. Nàng không đưa tiền giúp Tương Vân, dù nàng có thừa tiền, điều đó chứng tỏ nàng thật tâm lo lắng và suy nghĩ cho Tương Vân, giúp không phải chỉ để giúp mà còn muốn người ta có thể sử dụng được một cách tốt nhất. Ngay việc đưa yến sào sang cho Lâm Đại Ngọc cũng vậy, hết sức tế nhị và bao hàm trong đó cả một tấm lòng quan thiết. Nên một người cực kỳ tinh tế và dễ tự ái như Lâm Đại Ngọc mới chịu nhận, và hoàn toàn vui lòng nhận, không có chút tự ái. Một người biết lo lắng và quan tâm đến người khác trong từng chi tiết nhỏ nhặt như vậy lại có thể là một người xấu ư.

Nhớ trong phần bình luận đầu sách của Mai Quốc Liên có đoạn viết “ Nếu nói về bản chất và bản lĩnh của giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấu. Nàng có ác không. Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy giếng tự tử, Vương Phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Tôi hoàn tòan không đồng ý với ý kiến của ông. Giả sử bạn là nàng Tiết trong trường hợp này, bạn sẽ làm gì, khóc lóc trách mắng Vương Phu Nhân là người độc ác hay lẳng lặng bỏ đi cho bà ấy bẽ mặt. chẳng phải cách xử xự của nàng Tiết là trọn vẹn nhất sao. Nàng ấy không giống Lâm Đại Ngọc, không khóc mướn thương vay nhưng dại dằn vặt và làm khổ những người yêu mình hoặc chính bản thân mình, nàng luôn hướng suy nghĩ của mình theo một chiều hướng thực tế hơn, tích cực hơn. Nàng là người hiểu thời thế, có ăn có học, lại thông minh tinh tế nên chẳng bao giờ để tâm hồn hoặc treo ngược cành cây, hoặc chìm trong mộng ảo. Trong khi con gái nói chung, các bậc tiểu thư quyền quý nói riêng, với lối suy nghĩ nông cạn của mình, thích dằn vặt về quá khứ, thích đào bới những chuyện đã qua, nàng lại biết chấp nhận và cải biến cái kết quả đó theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Nàng một mặt giúp Vương Phu Nhân nhẹ lòng, mặt khác lại tìm ra cách cư xử hợp lý đối với nhà Kim Xuyến, tiện lợi cả đôi đừong, đối với một số người thì có thể coi là ác, nhưng đó là cách giải quyết tốt nhất vậy.

Vậy thì Tiết Bảo Thoa đáng ghét ở điểm nào, chẳng lẽ ở chỗ nàng quá lý tính, không có một chút tình cảm nào ư. Hòan tòan sai. Nếu nói nàng không có tình cảm, thì ai là người đã đứng đầu hội vịnh Hải Đường trắng, người không có tình cảm mà lại có thể viết ra được những vần thơ tình tứ phong lưu đến nhường ấy ư. Khi Bảo Ngọc bảo nàng giống Dương Quý Phi, nàng cũng biết nổi giận đó chứ. Nàng đã đỏ mặt lên rồi nói “ tiếc là tôi không có người anh em nào đáng làm An Lộc Sơn”. Không có tình cảm mà nàng lại có thể quan tâm và lo lắng cho Tương Vân đến thế ư. Nàng cũng thương Lâm Đại Ngọc, có chứ, chỉ là, trong một chừng mực nào đó, nàng cũng không thể làm được gì cả. Và đối với những việc không thể làm được, nàng chỉ đành đè nén con tim, đè nén tinh cảm của mình, tự ép mình vào khuôn khổ, vì nàng sống không chỉ cho mình mà con cho biết bao nhiêu người khác.

Nếu xét từ đầu đến cuối, có lẽ Bảo Thoa đáng thương hơn là đáng giận. Nàng sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tôc, lẽ ra nàng đã được tuyển vào cung, rồi cuộc sống trở nên an nhàn không phải lo lắng về bất kỳ điều gì. Nàng vốn là nữ nhi, mà nữ nhi là ngoại tộc mà. Nhưng trong khi đó, anh nàng lại gây ra biết bao nhiêu là chuyện, để nàng, một người con gái yếu ớt phải lo lắng và sầu não, một mặt chăm sóc mẹ, một mặt phải sống chung với người chị dâu đành hanh, khó chịu, mặt khác lại phải lo lắng cho anh. Khi lấy chồng, nàng vừa mang tiếng là người giật chồng của người khác, lại phải sống trong sự lạnh nhạt của chồng. Từ đầu đến cuối, nàng cư xử ôn hòa nhã nhặn, sống chừng mực tu thân dưỡng tính, nhưng nàng được cái gì. Chị dâu thì cạnh khóe, anh thì tình rượu hứa hẹn, say rượu hoặc ngông cuồng lên thì coi trời bằng vung. Lấy chồng cũng không được đàng hoàng, ngay con hầu cũng bị đánh tráo, coi như là cứoi mình nhưng thực ra chỉ là đội lốt Lâm Đại Ngọc. Ngay đứa con, cũng chỉ là nhờ chồng xấu hổ mà có. Lâm Đại Ngọc chỉ biết thương hoa, không biết quan tâm đến những người xung quanh, nhưng ít ra nàng còn có một Giả Bảo Ngọc tri âm tri kỷ. Tiết Bảo Thoa thì thương yêu săn sóc cho khắp mọi người, nhưng rốt cuộc, người hiểu nàng, tri âm tri kỷ thực sự của nàng làm gì có ai. Ngay đến Tào Tuyết Cần cũng không cho là nàng đáng thương, khi soạn 12 bài trong Kim Lăng thập nhị thoa cũng không để tên nàng, trong sổ bạc mệnh của Tào Tuyết Cần không có tên nàng, Chẳng lẽ chăn đơn gối lạnh bên cạnh người chồng hờ hững, mang tiếng cướp chồng của người khác dù thực ra cũng chỉ là nạn nhân của các bậc tiền bối, hưởng một đêm xuân ngắn ngủi với chồng chỉ vì chồng xấu hổ khi bị bắt gặp quan tâm đến người hầu ( sự lo lắng quan tâm của Bảo Ngọc đến nàng còn kém hơn một tỳ nữ) rồi nuôi con một mình trong khi chồng bỏ đi tu, đó không phải là bạc mệnh ư. Tiết Bảo Thoa bị bỏ rơi ngay từ người cha đẻ của mình, người đã nhào nặn ra nàng, cho nàng đẩy đủ vóc dáng và tài năng, nhưng lại cướp đi của nàng quyền được yêu thương, quyền được làm người bạc mệnh.
Ngọc vàng duyên nợ tại trời
Ngấm ngầm phiền não ai người hiểu cho.
Góa chồng từ thuở còn thơ
Bạc đầu vẫn cứ mù mờ hận yêu.
Là người tôn thờ cô Lâm, tôi căm ghét Tiết Bảo Thoa. Nhưng nếu lấy tư cách là một người mẹ, một người chị hoặc một người em gái, tôi sẽ thật lòng sung sướng giao người con, người em, người anh của mình vào tay một người như nàng. Và cho dù lấy tư cách là một người con gái bình thường, nếu bị phản bội, tôi cũng chỉ cam tâm khi người tôi yêu phản bội tôi vì một người như nàng.

26.08.2006

A Tử - Tà áo tím cô độc

Thiên Long Bát Bộ - Lục mạch thần kiếm là bộ tiểu thuyết kiếm hiệp ưa thích nhất của tôi trong tòan bộ hệ thống tác phẩm của Kim Dung. Không hiểu sao tôi có cảm giác, tác phẩm đó chăm chút đến từng nhân vật dù nhỏ nhất, và tính cách của mỗi nhân vật lại có những điểm độc đáo riêng.

Thiên Long Bát Bộ không thiếu nhân vật nữ, mà phải nói là cực kỳ nhiều, cực kỳ đa dạng và nhân vật nữ nào cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, kể từ những nàng nữ tỳ như A Châu, A Bích, đến những vị công chúa, vương phi như Thư Bạch Phụng, mỗi người một vẻ, tuyệt nhiên không có ai giống ai. Trong rừng hoa đó, không hiểu sao tôi lại yêu thương nhất, cảm thông nhất với đệ nhất quái nữ : A Tử, cô gái nhỏ tinh ranh quái quỷ với tà áo tím.

Giống như A Châu, A Tử cũng là một đứa con rơi lưu lạc từ thuở nhỏ. Trong khi A Châu được gửi vào nhà Mộ Dung, một gia đình tiếng tăm lừng lẫy, thì A Tử lại trở thành đệ tử của Đinh Xuân Thu, một trong những đệ nhất ác ma chốn biên thùy.

Trẻ thơ chịu ảnh hưởng từ môi trường xung quanh, và trong một nơi mà người thầy chính là một kẻ vong ân bội nghĩa lừa thầy phản bạn, các huynh đệ đồng môn thì đớn hèn, ngoài mặt nói cười nhưng bên trong ngấm ngầm hại nhau, tranh giành đoạt lợi, thì không có gì là lạ khi tính cách của A Tử phát triển theo chiều hướng đó : Nàng độc ác, ranh mãnh xảo quyệt lươn lẹo một cách hoàn tòan ngây thơ, như điều đó vốn dĩ thuộc về bản chất của nàng, và nàng tuyệt nhiên không nghi ngờ điều đó. Có nghĩa là nàng hoàn tòan không coi điều đó là xấu, làm những việc đó đối với nàng thỏai mái tự nhiên, như lòai hổ vốn dĩ ăn thịt và trâu bò ăn cỏ. Cái bản chất đó, tư tưởng đó đã ngấm sâu vào tận máu thịt nàng, đến mức kể cả khi đã rời xa Tinh Tú Môn, sống chung với cha mẹ, hoặc sống chung với Kiều Phong, nàng vẫn không hề thay đổi. Đương nhiên rồi, vì nàng có bao giờ có bất kỳ suy nghĩ nào nghi ngờ về hành vi của mình đâu, và cũng có ai nói cho nàng biết đó là sai đâu. Khi còn ở với mẹ, Tinh Trúc một mặt thương con bị côi cút lưu lạc từ nhỏ, một mặt lại chỉ lo tìm trăm phương ngàn kế để giữ người tình, hơn nữa tính cách của bà cũng mười phần cổ quái, thì làm sao có thể rèn giũa A Tử thành người tốt cho được. Đến khi ở với Kiều Phong, ông vốn dĩ là một người phóng khoáng, lại nhận lời chăm sóc A Tử vì một lời hứa với A Châu, cho nên ông cũng không thực sự cải biến được A Tử. Vì Kiều Phong vốn dĩ sinh ra để làm những việc lớn, ông có thể nói là một kẻ chất phác, không câu nệ tiểu tiết, không tinh tế, hơn nữa lại không hòan tòan chú tâm vào A Tử nên dĩ nhiên không thể phát hiện ra những điểm xấu của A Tử, mà có phát hiện ra thì ông cũng vì người chị quá cố mà bỏ qua, hoặc ông vô phương đối phó.

Tuy nhiên, việc A Tử lại trở thành một đứa trẻ như vậy một phần cũng là do dòng máu di truyền từ cha mẹ. Tuy là một đứa con rơi, nàng vẫn mang dòng máu kiêu hãnh của một bậc vương giả (cha nàng là Đòan Chính Thuần, vương gia của vương quốc Đại Lý) - điều này lý giải cho việc nàng không để ai vào mắt, và trộn vào đó là dòng máu của một người phụ nữ muôn phần quái quỷ ranh mãnh : Nguyễn Tinh Trúc. Dòng máu này đã ảnh hưởng sâu sắc đến nàng, vì thế nàng dễ dàng hấp thụ cái môi trường ở Tinh Tú môn. Thì như A Châu đó, tuy được nuôi dạy trong nhà Mộ Dung, một gia đình cực kỳ nghiêm khắc, (có thể thấy qua cách rèn giũa con cháu các đời,) nhưng vẫn không rũ bỏ được bản tính tinh nghịch ranh mãnh di truyền. Nàng dám cải trang thành bà lão để chọc Cưu Ma Trí, lại buộc Đoàn Dự phải dập đầu lạy. Nếu A Châu còn như thế, huống hồ là A Tử, khi phải sống từ nhỏ trong một môi trường khốc liệt, lấy cạnh tranh làm sinh tồn, chỉ có thể lấy sự tinh ranh, xảo trá để tồn tại.

Thực tế, bản thân A Tử chưa có nổi một người yêu thương nàng chân chính. Chưa ai thực lòng yêu thương nàng, hoặc là duy nhất đối với nàng, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi nàng đã có cách đối xử với mọi người xung quanh theo chiều hướng như vậy. A Châu là chị nàng, nói là yêu thương nàng, nhưng rốt cuộc thì sao, để hóa giải mối hận cừu giữa Kiều Phong và Đoàn Chính Thuần, nàng đã tìm đến cái chết. Như vậy đối với A Châu, Kiều Phong quan trọng hơn nàng nhiều. Tinh Trúc là mẹ nàng, nhưng rốt cuộc thì sao, bà chỉ tìm trăm phương ngàn kế để giữ lấy Đòan Chính Thuần, nên có thể nói, đối với bà, Đòan Chính Thuần quan trọng hơn nàng nhiều. Kiều Phong thì lại càng không, Kiều Phong chăm sóc nàng, trước tiên chỉ vì lời hứa với A Châu, và hòan toàn coi nàng là một người em gái nhỏ. Mối quan tâm của Kiều Phong đến A Tử chỉ đơn giản đến thế, có thể nói so với ông, nàng chẳng khác gì những con vật ông nuôi xung quanh, có khi đối với ông, nàng còn chẳng bằng con ngựa ông đang cưỡi. Đem tặng con ngựa của mình cho người khác, có lẽ ông còn tiếc, nhưng khi giao A Tử cho Du Thản Chi, ông chẳng mảy may lo nghĩ, có cảm giác ông thở phào nhẹ nhõm vì đã thoát được một gánh nặng. Du Thản Chi thì sao, hắn yêu nàng, nhưng thực chất đó không phải là tình yêu, chỉ đơn giản là hắn thờ phụng một cái gì đó đẹp đẽ xa vời, hắn chỉ có thể làm một con chó nhỏ vẫy đuôi theo sau nàng, làm sao xứng đáng là người yêu nàng cho được. Những người gần gũi nhất với nàng còn như vậy nữa là những kẻ xa lạ khác : cha nàng, anh nàng, sư phụ và huynh đệ đồng môn.

Trong hòan cảnh đó, A Tử mặc sức tung hoành, nàng thản nhiên gây họa, thản nhiên chơi đùa với mạng sống của người khác, khinh rẻ người khác. Nàng hòan tòan coi đó là một trò chơi thú vị hoàn tòan không thấy nó xấu một chút nào.

Cho đến lúc chết, nàng tuyệt nhiên vẫn không thay đổi. Khi ôm Kiều Phong đứng bên bờ Nhạn Môn Quan, nàng chẳng để cho bất kỳ ai đến gần. Móc mắt ra trả Du Thản Chi, tuy nàng làm thế vì nhớ lời Kiều Phong, nhưng hành động đó vẫn thể hiện rõ bản chất của nàng, làm bất kỳ việc gì cũng không theo khuôn khổ bình thường.

Bi kịch của A Tử bắt đầu từ khi nàng rời khỏi Tinh Tú Môn. Giá như không rời khỏi Tinh Tú Môn, giá như không vào Trung Nguyên, có lẽ nàng sẽ mãi mãi hạnh phúc với bản tính đó của mình, với cách sống đó của mình, vì không như những người khác, nàng không có bất kỳ mảy may nghi ngờ về tính thiện ác hay sai trái trong những hành vi của mình. Chỉ khi vào Trung Nguyên, chỉ khi gặp Kiều Phong, cái bản tính đó mới làm nàng đau khổ. Vì Kiều Phong là người duy nhất khiến nàng để tâm việc có một ai đó cho riêng mình, và vì Kiều Phong là người duy nhất không bao giờ chịu ảnh hưởng trước những trò ranh mãnh của nàng. Và bi kịch của A Tử chỉ chấm dứt cùng với cái chết của Kiều Phong, khi nàng cùng ông rơi xuống vực thẳm Nhạn Môn Quan.
Tình cảm của A Tử đối với Kiều Phong :

A Tử từ nhỏ đã sống trong một môi trường đầy những sự xảo trá điêu ngoa, người người lấy việc hãm hại vùi dập kẻ khác làm vui sống, tuyệt nhiên không bao giờ đối đãi với nhau bằng tấm chân tình. Và nàng là như vậy.

Ban đầu, nàng chỉ đơn thuần coi Kiều Phong là một món đồ chơi. Nàng gai mắt khi thấy trong mắt Kiều Phong chỉ duy nhất có A Châu, và nàng nảy sinh ý muốn chiếm đoạt Kiều Phong cho mình, cho bõ ghét. Nhưng sau đó, phát hiện ra Kiều Phong là một người tài giỏi, nàng lại nảy sinh ý muốn chiếm đoạt Kiều Phong, như một người bảo vệ. Chỉ sau một thời gian dài sống bên Kiều Phong, nàng mới muốn có Kiều Phong như một người mình yêu.

A Tử yêu Kiều Phong như một lẽ đương nhiên. Nàng vốn dĩ là một người cổ quái, có thể nói nàng không đặt bất kỳ ai vào trong mắt. Ngay cả Tinh Tú lão quái, nàng tuy trước mặt tỏ ra sợ sệt, nhưng thực chất nàng vẫn dám đánh cắp bảo bối của lão bỏ trốn, chứng tỏ nàng cũng chẳng coi lão ra đâu. Khi thấy có người bảo vệ, nàng đã lớn tiếng tự xưng mình ngang hàng với lão. Trong khi đó Kiều Phong khác hẳn với những người xung quanh nàng. Kiều Phong đường đường là một đấng tu mi nam tử, đầu đội trời chân đạp đất, tính tình hào sảng, không coi nặng tiểu tiết. Bản tính Kiều Phong khác hẳn với A Tử, có lẽ đó là điểm thu hút lớn nhất của ông đối với nàng. Những trò tinh ranh quái quỷ của nàng có thể hữu dụng với người khác, nhưng hòan toàn không thể ảnh hưởng mảy may đối với ông. Hơn nữa, việc ông chỉ khư khư giữ hình ảnh A Châu trong lòng cũng tạo nên một sức thu hút lớn đối với nàng.

Và người ta có thể không yêu hay sao, khi đứng bên cạnh một vị anh hùng như vậy. Có ai ngòai Kiều Phong có thể xứng đáng cho A Tử gửi gắm cả con người mình chăng. Có ai hơn nổi Kiều Phong đáng để cho nàng ngưỡng mộ hay chăng. Ngay như cha nàng, đường đường là một vị Vương gia, nhưng lại khổ sở vì mấy bà tình nhân, so về võ công thì kém xa với Kiều Phong. Anh nàng, Đoàn Dự, thì không khác gì một kẻ ngốc, chỉ chăm chăm theo đuổi và làm vừa lòng mấy vị cô nương. Sư phụ nàng. Tinh Tú lão quái thì ranh ma xảo quyệt, độc ác vô lương. Mấy vị sư huynh của nàng thì kẻ nào cũng đớn hèn, vô dụng. Du Thản Chi thì khác nào một con chuột đội lốt sư tử, dẫu có sức mạnh trong người đó nhưng lá gan chuột thì vĩnh viễn không thể thay đổi được. Còn như Mộ Dung Phục, Hư Trúc, một kẻ thì suốt ngày tâm niệm với kinh kệ và phật pháp, một kẻ đắm chìm trong danh vọng quyền lực, hòan tòan không phải là đối tượng gây hứng thú với nàng. Tất cả đều kém xa Kiều Phong, thì không lẽ nào nàng lại hạ mình quan tâm đến những kẻ đó.

A Tử yêu Kiều Phong, nhưng có lẽ chính bản thân nàng cũng chưa nhận ra điều đó. Nàng với bản tính ích kỷ của mình, cố gắng giành giật Kiều Phong với suy nghĩ là nàng muốn có Kiều Phong bên cạnh, muốn chiếm hữu Kiều Phong cho riêng mình, muốn gạt bỏ hoàn toàn A Châu khỏi tâm trí Kiều Phong. Đó chưa hẳn là tình yêu, nhưng đó là manh nha cho một tình yêu, kể cả khi nàng cố tình vứt bỏ chiếc áo A Châu may cho Kiều Phong.

Có lẽ A Tử chỉ nhận ra tình yêu của mình đối với Kiều Phong sau khi nàng được Hư Trúc chữa xong đôi mắt. Khi nhận đôi mắt của Du Thản Chi, lần đầu tiên A Tử mới cảm nhận được cảm giác "bị yêu", mới hiểu được tình yêu của người khác dành cho mình. Điều đó đã có tác động sâu sắc đến con người nàng. Kiều Phong cũng mơ hồ nhận ra sự thay đổi của nàng qua đôi mắt nhuốm buồn, nhưng cái bản tính thiếu tinh tế cố hữu của hắn cùng với nhiều việc đáng lo lắng đã làm hắn bỏ qua điều đó. Ông đã không biết nàng thay đổi, và chính nàng cũng không biết nàng đã thay đổi. A Tử với đôi mắt của Du Thản Chi đã khác xa với A Tử đồ đệ của Tinh Tú môn. A Tử đồ đệ của Tinh Tú môn muốn giữ chặt Kiều phong như một món đồ, một người bảo vệ đáng giá, còn A Tử với đôi mắt của Du Thản Chi thì muốn có được Kiều Phong như một người mình yêu. Cô A Tử cũ hoàn toàn tự tin vào mình, chiếm hữu tất thảy chỉ để thỏa mãn tính hiếu thắng ham chơi, cô A Tử thứ hai mềm yếu hơn, cư xử như một cô gái đang yêu hơn. Vì nàng đã cảm nhận được tình yêu tuyệt vọng của Du Thản Chi, nên nàng cũng hiểu ra, đối với tình yêu của Kiều Phong, nàng hòan toàn vô vọng. Vì lẽ đó, nàng, một cô gái tinh ranh chuyên lừa gạt người khác lại mắc phải cái mưu quá đỗi đơn giản của người ta, gián tiếp làm hại đến người mình yêu.

Tình yêu của A Tử, cũng như cuộc sống của A Tử, như một cây cột trồng trong vách, chưa có được một ngày hạnh phúc. Đau khổ thay cho nàng khi người duy nhất nàng yêu lại chẳng sá gì đến tình cảm của nàng.

Lấy tư cách là em ruột của A Châu để ở bên Tiêu Phong, quả nhiên nàng là người con gái duy nhất có thể gần gũi ông, được ông chiều chuộng chăm sóc, yêu thương. Nhưng cái chiều chuộng chăm sóc của ông xuất phát từ tình cảm một người anh trai dành cho người em gái, tuyệt đối không có chút gì là tư tình luyến ái giữa nam với nữ. Khi Du Thản Chi mang A Tử đi, Tiêu Phong cũng không ngăn cản, vì ông cho rằng con gái lớn phải gả chồng, và chỉ cần A Tử thích là ông không ngăn cản. Vì từ đầu đến cuối ông chỉ là một người anh trai, chỉ chăm sóc A Tử theo đúng lời căn dặn của A Châu, khi A Tử có người khác chăm lo, coi như ông đã không còn chút trách nhiệm nào.

Kiều Phong yêu A Châu, tòan bộ tình cảm của ông chỉ có thể dành cho A Châu, không bao giờ để mắt đến ai ngoài A Châu. Nên cái chết của Kiều Phong có khi lại là niềm hạnh phúc của A Tử. Vì chỉ lúc đó, ông mới thuộc về nàng, vĩnh viễn chỉ thuộc về nàng. Và dưới Nhạn Môn Quan, cuối cùng A Tử cũng tìm được hạnh phúc cho mình.
-------
22.08.2006 - Lam Anh

Shin - Cậu bé bút chì

Shin - Cậu bé bút chì - (Crayon Shinchan) tác giả Yoshito Usui là một manga với nhân vật chính là Shin, tên viết tắt của Shinnosuke, một cậu bé mới lên năm tuổi trong một gia đình Nhật Bản bình thường : Cha là một trưởng phòng một công ty, mẹ là Maeda, ở nhà làm nội trợ. Chú bé Shin và gia đình có thể coi là một gia đình tiêu biểu cho tầng lớp trung lưu của Nhật Bản, một gia đình được lấy mẫu từ bất kỳ gia đình nào trong xã hội Nhật Bản thời nay. Bất kỳ người đọc nào nhìn vào có thể thấy một phần của gia đình mình trong đó, điều đó đã tạo nên sự gần gũi giữa Shin và bạn đọc.

Hình vẽ không đẹp, có thể nói hình vẽ của truyện là ngộ nghĩnh, nhưng tuyệt đối không đẹp, không có tình tiết ly kỳ mạo hiểm, không có bảo bối tân kỳ, không có những chuyện tình cảm sướt mướt éo le, Shin - cậu bé bút chì - chỉ xoay quanh mối quan hệ của một đứa trẻ 5 tuổi với những người xung quanh : cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè và những người khác. Câu chuyện diễn ra với nhịp độ chậm, đơn giản, từ trong nhà, đến trường học, đến siêu thị rồi ra công viên, nghĩa là nó kể lại một cách chi tiết những gì diễn ra xung quanh cậu bé Shin, không cường điệu, và cũng không giản lược. Chỉ là những mẩu chuyện ngắn, những tình huống bình thường, nhưng thông qua cách cư xử của một đứa trẻ năm tuổi thông minh tinh nghịch, tác giả đã làm những bậc phụ huynh, những người lớn chúng ta phải giật mình suy ngẫm : Vì sao cậu bé Shin lại có cách xử sự như thế, vì sao cậu bé lại nói những câu như thế. Vâng, trẻ con giống như một tờ giấy trắng, nó sẽ hấp thụ một cách nhanh nhất những gì mà người lớn biểu hiện xung quanh mà không chọn lọc. Hơn thế, với trí óc ngây thơ hồn nhiên, nó không biết cách giấu diếm, không biết cách bôi trộn nhào nặn để dễ nghe hơn, để vừa lòng nhau hơn, nó như một tấm gương phản ánh trung thực những gì mà nó nhìn thấy. Giá như Shin không có một bà mẹ mê ngủ, nhiều chuyện, thích ngồi lê đôi mách, chắc chắn cậu bé sẽ không có những câu nói làm người lớn phải đỏ mặt xấu hổ. Giá như Shin không có một ông bố "háo sắc" và có cử chỉ vượt ngòai khuôn khổ, chắc cậu bé đã không có cách cư xử khiến cô giáo và những người xunh quanh phải bực mình và buồn cười : thích xem tạp chí ảnh người mẫu, thích trò chuyện với những cô gái xinh đẹp, …. Cha mẹ Shin đã bao nhiêu lần vấp phải những tình huống dở khóc dở cười khi cậu con trai mình lặp lại y những gì mình đã làm, nhưng cuối cùng họ chỉ có thể làm : hoặc cho cậu một trận đòn, hoặc mắng cậu, hoặc dắt cậu bỏ đi thật nhanh. Cách cư xử của những bậc cha mẹ như cha mẹ Shin khá phổ biến, họ không biết rằng căn nguyên nằm ở chính họ, nếu họ không biết thay đổi bản thân thì những đứa trẻ sẽ chẳng bao giờ có thể khác được. Không thể đòi hỏi một đứa trẻ ngoan khi xung quanh nó, người lớn cư xử bừa bãi và thiếu ý thức với nhau.

Căn bản cha mẹ Shin không phải là người xấu. Cha Shin, vẫn là một người đàn ông gương mẫu biết chăm lo cho vợ con, biết trông con khi vợ vắng nhà, biết lo toan cho gia đình. Mẹ Shin, cũng không phải là một người phụ nữ xấu, cô vẫn biết thu vén nhà cửa, dạy dỗ con cái. Họ có những điểm chưa tốt, nhưng tuyệt nhiên không phải là những người xấu, nhưng họ mang điểm yếu chung của phần lớn những ông bố bà mẹ hiện nay, không chịu nhìn con trẻ với đôi mắt của chính trẻ, không chịu đặt mình vào vị trí của trẻ, nhiều lúc cực kỳ cưng chiều, nhưng nhiều lúc lại giận dữ vô cớ. Họ không biết cách nuôi dạy trẻ con thật sự đúng đắn, không biết rằng ngòai việc lo toan cho con đầy đủ, họ phải biết rèn giũa mình để trở thành tấm gương tốt cho con. Shin - Cậu bé bút chì - chính là một lời cảnh tỉnh sâu sắc đến những bậc cha mẹ ngày nay. Có những người sẽ cho rằng, Shin đã cường điệu hóa những gì đang xảy ra xung quanh một đứa trẻ, làm gì có đứa trẻ nào như thế. Vâng, nhưng đó là sự thật ạ, chỉ vì họ không biết, hoặc là họ chưa có con, hoặc đơn giản là họ đã quên rằng con họ đã lớn lên như thế nào. Thỉnh thoảng, tôi lắng nghe những đồng nghiệp của mình kể chuyện về những đứa trẻ của họ, những đứa bé trong độ tuổi của Shin, họ nói chúng có những cách cư xử và nói năng mà họ không thể ngờ tới. Có cô bé thì gọi tên những đồ vật xung quanh mình như bạn học, và gắn cho nó những tất cả những gì mà mình phải làm : " Mẹ ơi, thế con thạch sùng đi đâu hả mẹ. Nó cũng đi học hả mẹ". Có cô bé khi bà mẹ hỏi "Vì sao con lại đánh anh" thì đã xua tay rất người lớn "Con xin lỗi, con quá nóng"....Đó chỉ là một số điểm rất nhỏ mà các bà mẹ phát hiện ra, còn nếu bạn chịu khó lắng nghe khi chúng trò chuyện với nhau, bạn sẽ khám phá ra nhiều điều thú vị hơn thế, và cũng đáng giật mình hơn thế. Thế giới của trẻ con cũng đa dạng và phong phú không kém gì thế giới người lớn chúng ta, và nó phản ảnh lại hầu hết mà chúng ta đang làm. Trẻ con, với trí óc còn ngây thơ non nớt của mình, coi cha mẹ là những người thầy duy nhất để học tập, và vô hình chung chúng sẽ cư xử y như những gì cha mẹ chúng đã và đang cư xử.

Tuy nhiên, Shin không chỉ là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đến cách dạy bảo của các bậc cha mẹ đối với con trẻ, nhiều lúc Shin còn không ngần ngại lột bỏ cái mặt nạ giả dối của các bậc người lớn đáng kính. Cái hồn nhiên ngây thơ của cậu bé Shin đã làm cho không ít người hoặc đỏ mặt xấu hổ, hoặc nhảy dựng lên giận dữ, hoặc nghiến răng bực tức. Người lớn có quá nhiều điều để mất, có quá nhiều điều phải e ngại, nhưng trẻ con thì không thế, và với sự thẳng thắn dễ thương đó, Shin đã làm được nhiều điều mà người khác còn chần chừ không dám. Ngài thị trưởng đáng kính bệ vệ quả quyết bảo vệ sự trong sạch của mình, nhưng chỉ với câu hỏi rất ngây thơ của bé Shin, ngài đã vô tình lộ mặt. Cô nhân viên bán hàng tiếp thị vụ lợi, muốn lợi dụng sự khôn khéo của mình để bán được hàng, vô ích, lại trở thành trò cười cho mọi người xung quanh. Không có gì là thực sự to tát, vì dĩ nhiên, Shin không phải là siêu nhân, cũng chẳng phải đấng cứu thế, chỉ đơn giản là một lời nhắc nhở nhẹ nhàng, những nụ cười ý nhị, thế thôi.

Báo chí lên án Shin, rằng nó đang reo rắc những tư tưởng độc hại cho lớp trẻ hiện nay. Tôi thực sự không thể hiểu nổi, họ nghĩ gì khi nói những điều đó. Họ thực sự đã đọc Shin chưa, đã hiểu Shin chưa, đã cảm nhận được những gì mà Shin truyền tải chưa, hay chỉ đơn giản là nhòm qua vài bức vẽ, rồi từ đó quy chụp cho nó những thứ mà nó không hề có. Họ chẳng khác nào những bác thầy bói mù, tóm được cái đuôi voi mà cho rằng con voi giống cái chổi xể. Thật khôi hài. Nhưng cũng đành chịu vậy, muốn thay đổi suy nghĩ của lớp người thủ cựu cố hữu như vậy thì thật khó, chỉ mong thời gian có thể làm họ nhận ra đâu là những điểm tốt đẹp thực sự. Hy vọng ngày đó sẽ không xa.

Còn bây giờ, nếu cha mẹ bạn không hài lòng khi thấy bạn chơi với chú bé ấy, hãy đặt Shin dưới gối nhé, cậu bé ấy sẽ càng gần gũi với bạn hơn - như tôi đang làm đây này.

21.08.2006 - Lam Anh kính bút

26/3/08

Honey and clove


Cuộc đời là những chuyến tàu mà mỗi người ta gặp là một bến đỗ. Con tàu ấy nếu lưu luyến quá một ga thì sẽ không có cơ hội đi tiếp đến ga khác
Khu nhà ấy là ký túc xá của sinh viên đại học mỹ thuật Hanadayama. Nơi đó, Takemoto, Mayama, Morita ba chàng sinh viên mỹ thuật ở ba độ tuổi khác nhau, mỗi người đều có một loại tính cách cực kỳ khác nhau đã trải qua cuộc đời sinh viên đầy phong phú và sâu sắc.

Tạo hóa thật kỳ diệu. Mỗi con người sinh ra trên trái đất này có thể khác nhau đến như vậy, trong hơn sáu tỷ con người ấy, không có hai bản thể nào giống hệt nhau. Con người với con người cũng thật lạ. Ai có thể biết được vì sao giữa những con người xa lạ lại có thể có được những mối dây liên hệ chặt chẽ đến như thế. Là những con người hoàn toàn khác biệt, ở những môi trường sống khác biệt vậy mà do sự run rủi của số phận họ lại đột ngột có duyên gặp gỡ với nhau.

Thế giới này thật rộng lớn biết bao nhiêu.Trong sáu tỷ người ấy, ai là người mà mình có thể gắn kết của cuộc đời. Trong sáu tỷ người ấy, người nào mà sợi tơ hồng đã buộc chặt lấy cổ tay cùng với ta.Mỗi ngày, có biết bao nhiêu con người lướt qua nhau một cách xa lạ, có bao nhiêu người đã ở bên nhau, rồi lại phải chia tách nhau, có khi trở thành thù hận nhau. Những mối cảm tình mong manh ấy sao có thể chắc là nó đến từ hai phía, mà cho dù nó đến từ hai phía đi chăng nữa thì làm sao nó có thể bền vững cho đến mãi mãi.

Con người ta có được gì sau những cuộc gặp gỡ. Duyên phận chăng, gặp được nhau là có duyên, nhưng cái duyên ấy sao có thể tồn tại mãi mãi. Trăng tròn tất phải khuyết, nước đầy tất phải vơi, vật cực tất phản, cái chân lý ấy muôn đời sao có thể thay đổi được. Ngày hôm qua thôi, chúng ta còn vui vẻ bên nhau, nhưng ai hay đâu ngày mai, chúng ta sẽ lướt qua nhau như những người xa lạ.

Con người có con tim, có khối óc, may hay không may khi con tim ấy ẩn sâu trong lồng ngực, khối óc ấy nằm kín trong đầu. Là may, vi có những suy nghĩ những tình cảm vĩnh viễn không nói ra thì tốt hơn. Là không may, vì nhiều khi, những hiểu lầm cứ chồng chất, chồng chất mà không có cách nào giãi bày, cởi bỏ.

Gặp nhau để làm gì, vui vẻ để làm gì, rốt cuộc, mỗi khi chia ly lại càng làm người ta phải đau khổ, trong khi đó, những ngày vui bao giờ cũng ngắn ngủi, càng vui nhiều thì khi mất đi người ta càng cảm thấy đau đớn, nuối tiếc.

“Tôi đã bao lần tự nhủ, tôi đã suy nghĩ thật nhiều, một tình yêu không có kết quả liệu có ý nghĩa gì cơ chứ. Một cái gì đó sẽ mất đi, không có kết cục gì thì khác gì chưa từng tồn tại”

Takemoto đã từng nghĩ như vậy. Nhưng khi trên con tàu đi về Morioka, khi mở gói bánh mà Hagu đã chuẩn bị cho mình, cậu choáng người khi nhận ra, mỗi lát bánh đều được kẹp kèm với một lá cỏ clover 4 cánh, như những lời chúc đầy yêu thương kèm theo may mắn và hạnh phúc. Này, tôi chẳng bao giờ có thể suy nghĩ được như Takemoto. “ Hagu, anh hạnh phúc vì đã yêu em” Không. Người ta có người yêu tôi sẽ đau khổ đến chết đi được. Nhưng cũng vì vậy mà tôi sẽ chẳng bao giờ có được cái hạnh phúc đi tìm bản thân, có những kỷ niệm ngọt ngào vui vẻ như cậu ấy lúc này. Cậu ấy đã nhận ra “Nhưng giờ tôi đã hiểu, tình yêu ấy hoàn toàn không vô nghĩa” Tạo hóa công bằng lắm, và mỗi điều xảy ra với chúng ta đều mang một ý nghĩa nào đó, chỉ là, ta không nhận ra hay ta không muốn nhận ra, dù vậy, nó vẫn im lặng ở bên ta, và một ngày nào đó, ta phải thừa nhận, nó không phải là vô ích.

Cây tía tô bị gãy
"Khi ngọn tía tô bị gãy, tôi gọi mẹ. Mẹ nhìn rồi nói " Gãy rồi thì thôi" Chỉ cần ngắt bỏ phần trên đi, làm thế, nhánh mới sẽ ra, và những lá tía tô khác cũng sẽ mọc lại nhanh thôi mà. Nhưng mình chẳng thể, cắt bỏ đi những chiếc lá còn mơn mởn thế kia."

Mấy ngày sau, khi ra lan can, Ayumi thấy cây tía tô đã bị gãy rạp vì sức nặng của phần bị gãy. Đúng như lời mẹ cô nói, phải biết ngắt bỏ cái ngọn đã gãy thì mới có chỗ cho những mầm xanh khác chồi lên. Nhưng cô đã không thể làm như vậy.

Vì sao ư, vì cô không thể bỏ được những mầm lá còn xanh mơn mởn đó. Cũng như việc cô mãi chìm đắm trong tình yêu vô vọng với Mayama. Mayama coi trọng Ayumi, quan tâm chăm sóc cô, nhưng vĩnh viễn không thể yêu cô. Tình cảm của người con trai ấy đối với cô chỉ là sự quan tâm của một người bạn, một người bạn thân thiết mà người ấy cực kỳ coi trọng, chỉ thế thôi. Không thể yêu, nhưng vì quá yêu, cô đã tưởng rằng mình có thể hài lòng với ánh mắt đó, nhưng ngọn cây gãy rục đó đâu phải lấy que chống mà có thể xanh tốt trở lại đâu. Ngọn tía tô đó đã đứt lìa cành, hôm nay, ngày mai nó có thể vẫn còn xanh, nhưng đó chỉ là chút dư âm còn lại, vĩnh viễn không thể đâm chồi.

Giống như cành cây chống ngọn tía tô đó, mọi cố gắng của Ayumi chỉ là vô vọng. Tình cảm của người con trai ấy chỉ hướng trọn vẹn về một người con gái khác. Dù tình cảm ấy chỉ là đơn phương, dù người con trai ấy vẫn hết lòng chăm sóc cô, nhưng lý lẽ của con tim nào ai có thể biết được, người ấy dù thế nào đi chăng nữa cũng chỉ yêu thương duy nhất người con gái ấy.

Cuối cùng, cây tía tô cũng gục đổ. Dù sao, trên trảng cát trắng ấy cũng đã có một người sẵn sàng cho Ayumi mượn bờ vai.

Những lá cỏ clover ấy, chỉ cần tìm, sẽ thấy, phải không ?

Gót sen ba tấc

Gót sen ba tấc

Nguyên tác : Phùng Ký Tài
Người dịch : Phạm Tú Châu
Ngay khi mới lên 7 tuổi, Qua Hương Liên đã được bà bó chân để có được đôi bàn chân xinh xắn tuyệt đẹp. Đôi bàn chân nhỏ nhắn 3 tấc chính là tấm vé thông hành giúp cô trở thành mợ cả của nhà họ Đổng cao sang quyền quý.

Cây cao thì gió cả, Qua Hương Liên lần lượt phải đối phó với hàng loạt những âm mưu có lộ liễu, có thầm lén nhằm hạ bệ cô, để rồi, với tính cách mạnh mẽ đã lộ rõ từ thời còn thơ ấu, cô đã lần lượt vượt qua được tất cả. Thất bại ở lần thi chân đầu tiên tưởng chừng đã có thể đánh gục được cô, nhưng với sự giúp đỡ của vú Phan, cô đã giành lại được vị trí đích thực của mình. Từ một cô gái ngây thơ, hiền lành, cô đã trở thành một người mạnh mẽ đến mức có thể tự mình nắm giữ tương lai và bảo vệ không chỉ mình mà còn đứng đầu cả nhà họ Đồng danh giá. Đứng giải nhất ở hội thi chân lần 2, rồi lật ngược thế cờ với đôi bàn chân hai tấc hai, đối mặt với sự tác động của chính quyền, của dư luận trong thời đại mới, Hương Liên đều không nao núng, đều lần lượt tìm ra cách để vượt qua tất cả.

Cuộc chiến cuối cùng giữa cô và Ngưu Tuấn Anh, hội trưởng hội Thiên túc kết thúc, cô đột nhiên ngất xỉu. Đôi bàn chân trần trắng trẻo sinh động tuyệt đẹp và đầy sức sống của Tuấn Anh đã đánh bại hoàn toàn giới Liên túc, với một triết lý rõ ràng : thi chân chứ đâu phải thi giày. Giới bó chân hoàn toàn thảm bại, như một điều tất yếu, bánh xe lịch sử đã quay, thời đại đã thay đổi và không có cách gì có thể quay trở lại. Tất cả những gì không phù hợp với thời đại mới, những cái thủ cựu dù có khư khư giữ đến đâu, dù có ngụy biện đến đâu cũng không thể tránh khỏi số phận bị đào thải.

Nhưng Qua Hương Liên vẫn chiến thắng. Năm 7 tuổi, cô bé đã có thể nghiến răng chịu đựng cơn đau vò xé để có được đôi chân tuyệt đẹp, thì đương nhiên, hai mươi mấy năm sau, cô cũng có thể nghiến răng chịu đựng nỗi chia lìa tình mẫu tử để con gái mình có thể có một đôi bàn chân bình thường. Ngưu Tuấn Anh là con gái cô, chính cô đã cho người mang con gái mình bỏ trốn khỏi cái hủ tục dã man này, ngay cả khi mình đang là người sở hữu đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn bậc nhất, đang được mọi người tán tụng say mê và đứng đầu gia tộc nhờ có đôi bàn chân ấy.

Bà của Hương Liên là một nghệ nhân tuyệt vời, bà đã bó cho Hương Liên đôi bàn chân đẹp nhất. Vú Phan cũng là một nghệ nhân tuyệt vời, vú đã có thể đưa Hương Liên từ địa vị bậc nhất xuống bùn sâu, và cũng đưa cô từ bùn sâu lên địa vị cao sang nhất. Nhưng đôi bàn chân đẹp nhất trên đời lại là đôi bàn chân do chính Qua Hương Liên tạo ra, chính là đôi bàn chân của con gái cô, đôi bàn chân trần như tạo hóa đã ban cho. Qua Hương Liên mới xứng đáng là nghệ nhân bó chân tuyệt nhất.

Cõi luân hồi 3

Chương III.
Thiếp tâm ngẫu trung ti… *
Tình chung tình thủy
Tình chân tình si
Người có duyên, tất sẽ gặp được nhau, nhưng duyên đó là gì thì không ai có thể biết được. Số phận đã định, người trần mắt thịt cũng chẳng có cách nào thay đổi được. Bạch đại ca với tôi vốn dĩ cho rằng, không uống Mạnh Bà Thang thì có thể thay đổi số phận định sẵn. Nhưng giờ nghĩ lại, tôi thấy, hình như ngay cả cái việc không uống Mạnh Bà Thang của tôi cũng là một hành động đã được dự trước. Tất cả như Bồ Tát đã nói : mọi việc tùy duyên.

Ngay khi tôi vừa rời khỏi vực sâu đó, tôi đã nhìn thấy Bạch đại ca. Nhưng sao ánh mắt của Bạch Đại Ca bỗng thất thần như thế. Nhìn theo ánh mắt đó, tôi thấy thiếu gia của mình đột nhiên ngất lịm. Chủ nhân của tôi và đám gia nhân cuống quýt chạy xung quanh, khóc lóc ầm ĩ, trong số đó có cả cha mẹ tôi. Hai người cùng lăn lộn khóc lóc. Bất giác một cảm giác đau nhói dội lên trong tim tôi. Tôi mơ hồ nhận ra sự thật. Tôi, cả tôi và Bạch đại ca, chúng tôi đã sai rồi. Trong giây lát đó, tôi đã ước, tôi không biết gì về quá khứ, về những chuyện đã xảy ra, về ân tình của người đó. Thật nực cười, tiểu ngạ quỷ của tôi lại là vị thiếu gia mà tôi một mực từ chối. Đúng là số phận, cố ý làm trái cũng chẳng được gì. Bạch đại ca có lẽ cũng đã biết trước về đoạn duyên phận này giữa tôi và tiểu ngạ quỷ, tiếc là, khéo quá hóa vụng, chữa lành thành hư, mà cũng không hẳn, chỉ là, không thể thay đổi được gì.

Bây giờ, Bạch đại ca lại đưa tôi về Uổng Tử Thành. Duyên phận của tôi với tiểu ngạ quỷ đã hết. Bồ Tát đã nói : tiểu ngạ quỷ đã cho tôi một kiếp luân hồi, tôi phải cả đời hầu hạ cho người ấy, tiểu ngạ quỷ cho tôi một kiếp luân hồi, là vì tôi phải chết oan vì người ấy. Duyên kiếp giữa chúng tôi thế là đã tận, từ nay tôi lại trở thành một oan quỷ trong Uổng Tử Thành.

Những ngày lạnh lẽo của tôi lại bắt đầu. Bây giờ, thay vì đứng ở dưới trông lên, chỗ của tôi là ở trong thành, vọng ngóng ra ngoài. Tôi tự hỏi mình, tôi có gì tiếc nuối không, hình như không. Người ta nói vạn vật tùy duyên, điều đó giờ tôi đã hiểu. Cố chấp cũng chẳng được gì, cứ tưởng rằng tìm ra một cách đi khác thì có thể thay đổi được số phận, mà đâu hay rằng mỗi hành động của mình đều đã được dự trước. Tái sinh rồi cũng chỉ đến thế mà thôi, yêu thương chỉ sinh lầm lạc, sinh hoài nghi đau khổ, không chỉ cho mình mà còn cho cả người khác. Nếu như ngày ấy tôi không lạc đường, tôi không được tiểu ngạ quỷ ấy giúp đỡ, thì làm gì khiến cho người ấy phải rơi vào một nghìn năm lầm lạc. Nếu như tôi không tái sinh cùng có với người ấy một đoạn duyên phận, thì làm gì một lần nữa, tôi lại đẩy người ấy vào tuyệt vọng đau khổ. Và nếu tôi không tái sinh, chắc cha mẹ tôi với chủ nhân của tôi đã không bị đau khổ vì mất mát chia ly, chắc người mà tôi tưởng là tiểu ngạ quỷ đó cũng không bị tôi cuốn theo vào kiếp số này. Có với nhau một đoạn duyên, là do luân hồi, nhưng giá như tôi không tái sinh, thì tôi sẽ không phải là nguyên nhân cho tất cả những ngang trái đau khổ đó.

Những ngày trong Uổng Tử thành vô vị mà cũng không hẳn là vô vị. Tôi lại đứng trên tường thành, nhưng không cố vọng ngóng về quê cũ nữa. Xét cho đến cùng, đoạn duyện phận đó của tôi chỉ là một thiên phóng bút của số phận, nhằm kết thúc mối quan hệ luân hồi nhân quả giữa tôi và tiểu ngạ quỷ đó. Là thật đấy, nhưng cũng chỉ là ảo đấy, dù là thật hay ảo thì nó cũng là một sự đã qua. Nên coi như đó là một giấc mộng, đau khổ tương tư chỉ là hư vô. Con tim đã không còn, thì làm gì phải vì ai mà rung động. Duyên kiếp cũng không còn, thì làm gì phải ngóng trông chờ đợi. Mặt trời đã không còn, thì tiếc nuối làm chi những ấm áp mơ hồ. Mùa xuân vĩnh viễn đã không đến, thì ước ao làm chi tới hoa cỏ hay hương thơm. Xét cho đến cũng, những cái đó dẫu có hay không, thì cũng không thể thay đổi được cái sự thật rằng, vĩnh viễn tôi không được tái sinh, vĩnh viễn tôi chỉ là một oan quỷ. Làm oan quỷ trong Uổng Tử Thành cũng tốt, những tiếc nuối đau thương của tôi sẽ không cần phải chồng chất thêm, càng đỡ có những người làm tôi phải thêm đau khổ, và đỡ có những người phải đau khổ vì tôi. Quan hệ ràng buộc với người khác, càng bớt đi chừng nào, trái đắng càng ít chừng đó.

Những oan quỷ chung quanh tôi cũng rất nhiều, ngày càng nhiều lên. Thế gian sao có nhiều điều đau khổ đến như thế. Tôi thấy có những oan quỷ giống như tôi ngày xưa, gạt lệ mà ngóng trông về quê cũ. Lại có những oan quỷ khác, ngày ngày đi lại dật dờ, tiếc nuối những kỷ niệm xa xưa, tình yêu, hạnh phúc, tiền tài, danh vọng. Hình như chẳng mấy ai giác ngộ được như tôi. Hoặc giả họ không biết rằng, tất cả những hành động, những ký ức đó của họ chỉ là một đoạn duyên phận mà số phận đã dày công soạn sẵn, họ cứ tưởng rằng nó thuộc về chính mình, tự mình gây ra, mà đâu hay rằng, họ chỉ là một con rối trong bàn tay vạn năng của số phận. Yêu thương, căm ghét, hạnh phúc, đau khổ, đó là những loại gia vị mà số phận tùy tiện nhỏ vào cuộc sống của mỗi người, trước khi đẩy họ đi tái sinh, và mãn nguyện khoác lên mình nó cái vỏ bọc rất mỹ miều “ luân hồi – nhân quả”

Tôi giờ đã thấy tiểu ngạ quỷ của tôi, à không, tôi đã dùng sai từ, người ấy đâu phải của tôi, chỉ là “tiểu ngạ quỷ”, cùng lắm thì thêm vào “ tiểu ngạ quỷ bên cầu Nại Hà”, thế thôi. Người ấy ngày ngày vẫn cần mẫn đi tuần bên cầu Nại hà, như một nét chấm phá trong bức tranh tổng thể khung cảnh Âm Giới. Nhưng tại sao hồi xưa ấy tôi chưa từng nhận ra nhỉ, khi mà người ấy là người đã giúp đỡ tôi khi tôi mới đến nơi này. Chắc tại hồi đó tôi còn chấp nê, còn mải ảo vọng về quá khứ, không được thông suốt như bây giờ.

Mỗi ngày, tôi đều thấy tiểu ngạ quỷ ấy đi tuần bên cầu Nại Hà. Điều ấy diễn ra một cách thường xuyên đến mức, dần dần, tôi coi đó là niềm vui của mình. Người ấy đi tuần ở phía dưới, còn ở phía trên này, tôi đứng nhìn theo. Đôi lúc, tôi thấy người ấy ngồi trầm tư suy nghĩ gì đó mông lung lắm, trán người ấy nhăn lại, nhìn trông khá buồn cười. Là trông buồn cười chứ không phải đáng sợ, không hiểu vì sao tôi tuyệt nhiên không thấy sợ khi nhìn thấy người ấy. Xét cho đến cùng, những con người tôi đã gặp, đẹp đẽ hay xấu xí cũng chỉ là do một tay tô vẽ của số phận, nhằm đạt được cái gọi là luân hồi nhân quả. Khi thác xuống đây, những hình hài đó nhanh chóng tan thành cát bụi, thành hư vô, vốn dĩ không tồn tại quá một kiếp người.Chỉ có tiểu ngạ quỷ ấy, hình dung ấy mới đích thực là của người đó. Có một hình dung vĩnh viễn không thay đổi, dẫu có như thế cũng là một điểm đáng ghen tỵ, đáng kính phục, có gì mà phải kinh sợ.

Rồi đến một ngày, cái cuộc sống bình dị của tôi đã thay đổi.

Ngày hôm ấy, một sự kiện kinh khủng đã xảy ra, làm không chỉ các oan hồn chúng tôi nhớn nhác, mà rung chuyển cả thế giới Âm Tào. Một phán quan vì yêu thương một cô gái con người mà trốn bỏ trốn lên trần gian. Đương nhiên, vị phán quan đã bị bắt lại, và cô gái kia cũng bị đày theo xuống Uổng Tử Thành. Mà cô ấy còn bị biệt giam vào hang địa ngục tăm tối, chứ không được thong dong đi lại trên tường thành như chúng tôi. Thật là nghiệt duyên, vị phán quan đó đã nhanh chóng bị sét đánh tan thành tro bụi vì đã dám lớn tiếng phỉ báng thần linh.

Tru Hồn đài sau đó trở lại tĩnh lặng vô cùng, mọi người bỏ đi hết, nhưng tôi thấy tiểu ngạ quỷ vẫn ở lại, dáng vẻ câm lặng đau khổ. Là một tiểu ngạ quỷ mà vẫn có tình đến như thế ư, một nghìn năm tu luyện, rồi ảo duyên vẫn chưa làm người ấy tỉnh ngộ ư. Tại sao chỉ trong chốc lát tôi đã nhận ra được thực và ảo, mà người ấy nghìn năm vẫn chấp nê. Cứ phải mua sầu chuốc não vào mình làm chi cho thêm vướng bận. Người ấy vì mê chấp trong ảo duyên mà dám phỉ báng cả thánh thần, người ấy là người viết nên số phận mà lại dám đi ngược lại số phận, là người chấp pháp mà đi ngược lại luật pháp, hậu quả người ấy gánh chịu là đương nhiên, có chi phải đau xót hay khổ sở. Khi ta gieo một cái nhân, ta đã phải biết quả nó như thế nào rồi. Những tiểu quỷ như chúng tôi phải chịu sự chỉ dẫn của số phận, làm theo như những con rối, mà chúng tôi vẫn còn phải vào Uổng Tử Thành vì cái tội không biết quý sinh mạng, thì vị Phán quan ấy phải chịu sét đánh tan thành tro bụi, và người con gái ấy phải vĩnh đọa diêm la là điều đương nhiên, sao phải băn khoăn giận dữ. Tôi thật sự không thể hiểu. Nếu đem tâm mà thương xót cho vạn sự thế gian, thì tâm nào cho đủ, đến như Bồ Tát cũng chỉ ngồi trên tòa sen lạnh lùng ra lệnh mà thôi, một tiểu ngạ quỷ nhỏ nhoi sao lại bao đồng đến như thế ?

Tiểu Ngạ Quỷ vẫn đứng đó đau đớn, rồi đột nhiên cúi xuống. Tôi thấy người ấy nhặt từ dưới đất lên một vuông lụa nhỏ, đọc chăm chú, rồi một giọt nước mắt đột nhiên lăn dài trên khuôn mặt khắc khổ. Nước mắt ư. Đã từ lâu tôi lãng quên điều đó, ngày xưa, tôi cũng từng có nước mắt như thế, cái lúc mà tôi bị người ấy chia uyên rẽ thúy, cái lúc mà đôi chúng tôi bị bắt lại sau khi bỏ trốn. Điều đó đã xa lắm rồi, ký ức đó tôi đã chôn vùi bao nhiêu năm, tại sao bây giờ chỉ vì một giọt nước mắt của tiểu ngạ quỷ ấy mà lại dội lên. Không, tôi không đau, tôi làm gì có tim mà đau. Tôi quay ngoắt đi, bỏ vào lại trong Uổng Tử Thành.


* * & * *

Sau ngày xử tội Tần Phán Quan, tôi không còn thấy tiểu ngạ quỷ nữa.

Hàng ngày, những vong quỷ vẫn tiếp tục phiêu phiêu trên mặt thành, bên cầu Nại hà, đàn đàn lũ lũ những vong hồn vẫn qua lại như mắc cửi, kẻ đi vào Uổng Tử Thành, kẻ lên Chuyển Luân Đài. Tâm trạng mỗi vong quỷ cũng khác nhau, có kẻ vui vẻ, có kẻ buồn rầu, có kẻ thì dửng dưng tỏ ý chẳng quan tâm gì cả. Tôi nhiều khi ngồi nhìn nét mặt từng vong quỷ, đoán xem liệu vong quỷ đó sẽ đi vào Uổng Tử Thành hay Chuyển Luân Đài. Càng về sau, khả năng phán đoán của tôi càng tinh tế, hầu như không trượt chút nào.

Một ngày, khi tôi đang đứng nhìn các vong hồn đi đi lại lại dưới chân Uổng Tử Thành, tôi bỗng nhiên thấy Bạch đại ca đi qua. Tôi bất giác buột miệng gọi, dù rằng tôi biết, điều đó là không thể. Bạch đại ca đã không còn là Bạch đại ca của tôi nữa, kể từ cái hồi tôi đã phụ lòng mong mỏi của đại ca, một lần nữa đẩy tiểu ngạ quỷ vào trầm luân đau khổ. Hiện giờ, nếu Bạch đại ca coi tôi giống như những vong hồn khác, ấy cũng là may mắn cho tôi rồi.

Đương nhiên, Bạch đại ca không quay nhìn tôi. Vốn dĩ tôi không hy vọng gì cả, nhưng không hiểu sao, giây phút đó tim tôi bỗng chùng xuống. À, nếu như tôi có tim, không, chỉ là tôi cảm thấy một cảm giác gì đó rất lạ, rất đau, mà cũng không hiểu đau ở chỗ nào.

Từ hôm đó, tôi mất hẳn cái thói quen đứng trên chân thành để nhìn người qua lại. Tôi sợ một lần nữa, gặp người quen, tôi sẽ gọi, và rồi đáp lại tôi chỉ là những khoảng trống vô tình.

Trong thành mọi thứ trôi thật vô vị. Tôi cứ đi tha thẩn ở từng góc hành lang này, sang góc hành lang khác, hoặc ngồi một chỗ, chờ từng ngày trôi qua. Không có sáng, không có tối, tôi chỉ biết được thời gian trôi qua nhờ có ánh đèn leo lét hắt lại từ phía chân cầu. Khi hai lượt đèn qua lại, ấy là hết một ngày đêm, thế thôi.

Thật kỳ quặc là tôi cứ dùng khái niệm ngày và đêm, trong khi ở đây, cái ngự trị liên tục là bóng tối. Không phải là thứ bóng tối đen sẫm giơ tay lên không nhìn thấy trong những đêm ba mươi, mà là cái bóng tối nhờ nhờ, hiu hắt, đủ cho người ta nhìn thấy bóng dáng của nhau, thế thôi, chứ không rõ hình hay dạng. Mà thực ra những vong hồn cũng làm gì có hình hay dạng, cần gì tới ánh sáng để soi cho tỏ tường.

Một ngày, khi tôi đang tha thẩn trong thành, tôi bỗng nghe thấy tiếng hát từ xa vọng lại :

Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau
Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm
Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp bên nhau
Từ ấy ngồi dằng dãi đêm thâu, nghe mưa tan vỡ.

Bài hát làm tôi không khỏi thấy lòng dội lên một chút, giọng hát ngọt ngào làm người ta càng tò mò. Lần theo tiếng hát, tôi đến một gian phòng nhỏ. Gian phòng đóng kín, chỉ có một ô cửa sổ nho nhỏ trổ ra ở phía trên, và tiếng hát vẳng ra từ đó.

Tôi bước lại gần, ghé mắt nhìn vào phía trong ô cửa. Phía bên trong tối mờ mờ, tuy nhiên tôi vẫn có thể thấy thấp thoáng bóng một vong quỷ đang ngồi bó gối trên giường. Trên tay vong quỷ ấy cầm một vật gì đó, tôi nhìn không rõ lắm. Tiếng hát chính từ chỗ người đó vẳng ra. Vong quỷ đó chắc mất từ lúc còn khá trẻ, hình dung có vẻ thanh tú, yểu điệu, mái tóc dài như suối, không nhìn rõ mặt nhưng cũng có vẻ là một mỹ nhân. Một mỹ nhân, không hiểu đã làm gì nên tội mà không chỉ bị đày ở Uổng Tử Thành, lại còn biệt giam ở một nơi như thế này ?

Thốt nhiên, đằng sau lưng tôi có tiếng nói :

- Người con gái ấy chính là tình nhân của Tần Phán Quan, muội không nhận ra sao ?

Tôi giật mình quay lại, suýt rơi nước mắt khi nhìn thấy người đằng sau. Chính là người mà tôi đã từng gọi, và đã từng không trả lời : Bạch Vô Thường đại ca. Tôi ấp úng :

- Bạch đại ca… à không, Bạch đại quan, sao người lại ở đây ?

Bạch Vô Thường không trả lời, nhìn tôi chăm chú, rồi đáp :

- Tiểu muội vẫn bình thường chứ ?

Tôi gật đầu :

- Vâng, vẫn bình thường ạ.

Bạch đại ca không nói gì nữa, đột ngột quay bỏ đi. Tôi ngẩn ra, không hiểu nổi vì sao. Như vậy là Bạch đại ca ghét tôi, hay không ghét tôi ? Nếu ghét tôi, sao vẫn gọi tôi là tiểu muội. Nếu không ghét tôi, tại sao chỉ hỏi tôi đúng một câu, rồi lại bỏ đi, không hỏi han gì thêm nữa.

Thốt nhiên, tôi lại nghe thấy một khúc ca nữa, từ xa vọng lại. Lần này tôi nghe rất rõ, giọng buồn da diết, chính là giọng của Bạch Vô Thường đại ca

Trời còn có đức hiếu sinh, cỏ cây tất cũng có tình.
Món ăn có chua cay ngọt mặn, người ai cũng thương nhớ giận hờn
Nhân gian luân hồi vạn kiếp, tránh sao đau khổ yêu thương
Đá núi ngàn năm nước chảy mòn, người vô tình bao giờ cảm động ?

Ngày hôm ấy, khi trở lại chỗ mình, đầu óc tôi vẫn luấn quấn không yên, Hình bóng của vị mỹ nhân trong ngục, tiếng hát của nàng, rồi những câu hát của Bạch Vô Thường đại ca, tất cả cứ đan xen quấn quýt vào nhau, làm tôi không thể nào bình tĩnh lại cho được. Hóa ra đó chính là người đã khiến vị Tần Phán quan kia từ bỏ cả địa vị danh vọng của mình. Người con gái ấy có cảm giác ra sao khi người mình yêu nhất bị đánh tan thành tro bụi, rồi mình thì bị giam cầm vĩnh viễn. Sao người ấy vẫn có thể ngồi đó mà hát cho được. Sao lại thế, sao lại thế ? Tình cảm là cái gì mà khiến người ta có thể luyến lưu mãi, có thể vì nó mà sống, mà hy vọng, dù hoàn toàn chẳng có chút gì để hy vọng.

Những câu hát của Bạch Vô Thường đột nhiên lại vang lên trong đầu tôi “người vô tình bao giờ cảm động, người vô tình bao giờ cảm động ?”

Thốt nhiên, hai giọt nước mắt nóng hổi từ má tôi bỗng tràn ra. Là Nước mắt. Tôi thấy choáng váng, một vong quỷ làm sao có thể có nước mắt? Nhưng nếu không phải là nước mắt, thì cái giọt mặn chát đang lăn dài trên má tôi đây là cái gì?

--------------
* Thiếp tâm ngẫu trung ti, tuy đoạn do khiên liên : Lòng thiếp như tơ trong ngó sen, dù đứt nhưng vẫn vương trên cành

Cõi luân hồi 2

Chương II

Cố ý trồng hoa

Kiếp này tôi chỉ là một tiểu nha đầu nhỏ nhoi. Ba mẹ tôi là người hầu cho người ta, cho nên khi vừa mới sinh ra tôi cũng mang tiếng người hầu của nhà người ta. Người ta thường nói : chạy trời không khỏi nắng, tôi cũng từng không tin. Nhưng sự thật thì cuối cùng nó cũng phơi bày ra tất cả.


Nhà chủ tôi là một thế gia vọng tộc. Tuy cha mẹ tôi là người hầu, nhưng cũng có chút địa vị và uy tín, nên cũng được nhà chủ nể trọng. Thế nên dù là con gái của người hầu, tôi cũng chưa có một ngày phải đi hầu hạ người ta, dù không được đối đãi như những bậc thiên kim tiểu thư thì cũng không đến nỗi bị coi rẻ.

Tôi trước khi đi đầu thai đã không uống Mạnh Bà Thang, cho nên, tôi không giống những đứa trẻ cùng tuổi khác, tôi nhanh nhẹn, xinh xắn, thông minh. Nhà chủ vì thế thường hay cho gọi tôi vào chơi với thiếu gia. Cả gia tộc lớn như vậy mà chỉ có một thiếu gia, đủ thấy người ấy quan trọng đến mức nào. Nhưng đối với tôi, thiếu gia ấy thật là ngốc, thường hay bị tôi bắt nạt. Nếu có người lạ thì tôi còn lễ phép một chút, nhược bằng không có ai, thiếu gia còn phải mài mực cho tôi viết.

Phàm là con người, khi sinh ra, ai cũng muốn mình được nâng niu coi trọng. Có đôi lúc, thấy vị thiếu gia kia nhường nhịn quá, tôi cũng thấy bất nhẫn, nhưng vẫn không có cách nào sửa đổi được tính tình ngỗ ngược của mình. Hơn nữa, tôi quen được nuông chiều rồi, cuộc sống sung sướng yên ả làm tôi thấy hạnh phúc vô cùng.

Nhưng cái hạnh phúc ấy, có phải bao giờ cũng ngắn ngủi.

Một buổi sáng, khi tôi rón rén đi vào thư phòng của thiếu gia, tính hù thiếu gia một chút, tôi bỗng nghe thiếu gia ngâm nga :

“Quan quan thư cưu
Tại hà chi châu
Yểu điệu thục nữ
Quân tử hiếu cầu”

Tim tôi như bị dội lên một cái rất mạnh. Trong phút chốc, kí ức của tôi bỗng dần dần trở nên sáng tỏ. Cái ký ức kinh hoàng ấy, tôi không hề muốn nhớ tới, tưởng như bao nhiêu năm đã làm tôi quên lãng, nhưng câu hát của thiếu gia đã làm tôi vụt quay trở lại. Chao ôi, căn phòng nhỏ với khoảng không gian lúc nào cũng tối mù, những cô hồn lảng vảng trong sương, tường thành rêu phủ mốc, rồi trong gió lúc nào cũng âm ỉ những tiếng kêu khóc rợn người. Và một tiểu ngạ quỷ đã hy sinh một nghìn năm đạo hạnh để nhường sự tái sinh cho tôi.


Tôi hoảng hốt ôm lấy đầu chạy ra ngoài. Trên kia, bầu trời sáng tươi rực rỡ. Những nhành liễu rủ mình xanh mượt bên hồ, xuân sang càng thướt tha diễm lệ. Những cánh diều đủ màu sắc bay vi vút tự do trên trời cao, ngân vang tiếng sáo. Những đóa hoa tươi xinh mơn mởn, chập chờn ong bướm vây quanh. Và những tài tử giai nhân dập dìu quần là áo lượt, tiếng chuyện trò ca hát âm vang rộn rã.


Bầu trời ấy, có thể tôi đã không bao giờ còn được thấy


Tiếng sáo ấy, có thể tôi đã không bao giờ còn được nghe


Màu sắc ấy, có thể không bao giờ tôi còn được thưởng


Và tình cảm ấy, có thể không bao giờ tôi còn được có.


Nhờ có sự hi sinh bao la của người ấy, một tiểu ngạ quỷ nhỏ nhoi canh gác bên cầu Nại Hà, tôi mới có thể thoát khỏi kiếp trầm luân trong Uổng Tử Thành. Bên tai tôi như nghe thấy tiếng ca não nề của người ấy


Môi hồng lệ xanh em điêu đứng nhân gian
Tôi bạc tóc phía bên lề duyên cũ


Không thể nào. Tôi có thể là một cô hồn, nhưng tôi không thể làm một kẻ vô tình bạc nghĩa. Dù muốn dù không, kiếp này tôi nhất định phải tìm ra người ấy, đem cuộc đời này trả cho người ấy.


Ngày tháng cứ trôi qua dần, hết xuân rồi lại đến hè. Tôi càng ngày càng trở nên nhan sắc. Đôi lúc, tôi bắt gặp ánh mắt thắm thiết của vị thiếu gia, đôi mắt ánh lên ngọn lửa của một tình yêu nồng nàn. Tôi vội vã quay mặt đi, tấm chân tình ấy tôi vĩnh viễn không thể nào tiếp nhận cho được. Dù sao người ấy cũng là đại thiếu gia cao sang quyền quý, còn tôi, tôi chỉ là một nô tỳ bé nhỏ, hơn nữa, tấm thân tôi giờ đâu còn thuộc về tôi nữa.


Mùa xuân năm ấy, tôi tròn đôi tám.


Một buổi chiều muộn, tôi và một nữ tỳ có việc phải đi ra ngoài. Lúc chúng tôi về thì trời đã tối, không gian xung quanh lạnh lẽo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rả trong ánh trăng mờ càng làm khung cảnh thêm thê lương, đáng sợ. Cô nữ tỳ kia và tôi cùng cảm thấy rợn người, cố rắng rảo bước cho nhanh.


Đột nhiên, tôi vấp phải một hòn đá.


Và đương nhiên, ngọn đèn trên tay tôi chao mạnh rồi vụt tắt.


Ánh trăng non không đủ sức soi sáng trên con đường lạnh lẽo. Bốn bên hiu quạnh, tôi và cô nữ tỳ hoảng hốt nắm chặt lấy tay nhau, không biết phải làm gì tiếp. Không có đèn, dò dẫm bước là điều không thể, nhưng ngồi lại đây thì còn chẳng biết thế nào.


Cô nữ tỳ kia bỗng òa lên khóc vì sợ hãi. Tôi ôm chặt lấy cô, dù thực ra tôi cũng chẳng dũng cảm hơn một chút nào.


Đang khi ấy, phía đằng xa bỗng có tiếng chó sủa, thấp thoáng một ánh đèn hiện ra ở phía xa xa.
Cô nữ tỳ níu chặt lấy tay tôi run rẩy :


- Có phải là quỷ câu hồn không ?


Ba chữ Quỷ câu hồn vọng vào tai tôi như sấm dậy. Quỷ thì sao chứ, tôi đâu có sợ, chính tôi cũng đã từng là một cô hồn, đại ca của tôi còn là Bạch Vô Thường cơ mà. Có gì mà phải sợ. Tôi liền vùng dậy kêu to :


- Có ai ở đó không, giúp chúng tôi với.


Có tiếng đáp từ phía xa xa, gió thổi tạt làm nó trở nên mơ hồ đến mức không thể nào biết được đó là những âm thanh gì. Chỉ có điều, ngọn đèn ấy đã đổi hướng, từ từ đi về phía chúng tôi.


Giây phút ấy tôi tưởng chừng như đã bắt gặp từ lâu lắm rồi, trong một ký ức xa xôi nào đó.


Cũng vẫn với ánh mắt hiền hòa và nụ cười nhẹ nhàng, người ấy giơ cao ngọn đèn và dịu dàng hỏi tôi :


- Hai vị tiểu cô nương có việc gì mà khuya khoắt còn ở nơi đồng không mông quạnh thế này ?


Khi nghe chúng tôi kể lại, người ấy đã ngỏ ý muốn được đưa chúng tôi về nhà. Trong đêm khuya, người ấy giơ cao ngọn đèn, né sang một bên cho chúng tôi đi trước, rồi lẳng lặng theo sau, tuyệt nhiên không có một cử chỉ nào khiếm lễ.


Hai ngày hôm sau, đột nhiên cô bé tỳ nữ đi cùng tôi hôm đó bỗng chạy vào, đưa cho tôi một chiếc khăn lụa, nói rằng của người con trai hôm nọ gửi cho tôi. Tôi từ từ mở ra, chỉ thấy trong đó có một bài thơ :


Xuân sang năm ấy bên cầu
Có cô gái nhỏ thả câu một mình
Nước hồ xanh, áo em xanh
Xuân sao thắm mãi ngàn năm không tàn


Giờ thì tôi biết cảm giác quen thuộc mà người đó mang lại là gì. Ngày xưa, có một lần tôi và thiếu gia đi câu cá ở hồ, tôi đã bắt thiếu gia chạy về nhà kiếm cho tôi một chiếc mũ che nắng, nên lúc đó chỉ còn mình tôi ngồi lại. Bên kia hồ có một chàng trai cứ đứng nhìn tôi, mỉm cười rất dịu dàng. Lúc đó, tôi thấy không thích nên đã cau mày lại, người đó có vẻ hiểu ý nên đã bỏ đi. Hóa ra người con trai đó vẫn còn nhớ đến tôi, đã bao nhiêu năm rồi mà vẫn không quên tôi.


Ánh đèn leo lét trong đêm khuya, cuộc gặp gỡ bất ngờ như định mệnh, nỗi nhớ nhung sâu thẳm của người ấy dành cho tôi, phải chăng, đó chính là tiểu ngạ quỷ năm nào ?

Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau
Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm
Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp bên nhau

Tiểu ngạ quỷ của tôi chẳng nhớ gì về quá khứ. Có lẽ giây phút đầu thai, người ấy đã không từ chối bát canh Mạnh Bà Thang, cho nên, những kí ức về tôi người ấy không nhớ một chút nào. Nhưng tôi biết, tôi vẫn tồn tại trong tiềm thức của người ấy, người ấy luôn nhìn tôi với một ánh mắt rất dịu dàng, luôn nhường nhịn và yêu thương tôi. Tôi thầm cảm ơn người đã đánh đổi một nghìn năm đạo hạnh để mang lại chút duyên gặp gỡ này cho hai chúng tôi.


Cuộc đời sao nhiều trớ trêu, định mệnh lại một lần nữa trói buộc tôi. Một ngày trở về nhà, tôi như bị sét đánh khi thấy cha mẹ tôi vui mừng thông báo, thiếu gia đã cho người mang lễ sang hỏi tôi làm vợ.


Hình như ngày vui không bao giờ trọn vẹn. Nhân quả là gì, kiếp trước tôi và người ấy có tội nghiệt gì, mấy trăm năm đạo hạnh mà không thể nào có nổi chút duyên vợ chồng với nhau sao?


Không phải Bạch đại ca đã từng nói, người ấy đã phải đổi một nghìn năm đạo hạnh để được có một đoạn duyên với tôi hay sao. Có phải vì Bạch đại ca đã dự trước được tình cảnh như thế này, cho nên Bạch đại ca mới kêu tôi đừng uống Mạnh Bà Thang


Khó khăn gian khổ trập trùng, nhưng tôi nào sá gì.


Người ấy đã bỏ nghìn năm vì tôi, lẽ nào tôi không thể đem tính mạng này đền bồi cho người ấy.


Ánh mắt si mê ngơ ngác của thiếu gia, ánh mắt căm ghét của người làng, ánh mắt đau đớn buồn rầu của người, của cha mẹ tôi tất cả như chìm trong một luồng sương mờ mịt.


Tình là biển khổ, quay đầu là bờ, chỉ cần tôi gật đầu, cuộc sống vinh hoa phú quý ấy sẽ dành cho tôi. Chỉ cần tôi gật đầu, kiếp này tôi sẽ trở thành một mệnh phụ phu nhân đáng kính, cha mẹ tôi sẽ được coi trọng.


Nhưng chỉ cần tôi gật đầu, vĩnh viễn tôi không thể bồi đắp cái chân tình nghìn năm của người ấy.


Thôi thì tôi đành phụ công ơn dưỡng dục của cha mẹ, đem tính mạng này trả cho người ấy.